Luật Khoa tạp chí trân trọng giới thiệu
bản dịch Việt ngữ tác phẩm “Bàn về dân chủ” của nhà khoa học chính trị
Robert Dahl (Đại học Yale), được dịch giả Phạm Nguyên Trường chuyển ngữ,
do Nhà xuất bản Giấy Vụn ấn hành năm 2015.
Bản e-book do NXB Giấy Vụn cung cấp cho
Luật Khoa để phát hành lần đầu ra công chúng. Độc giả có thể tải sách
theo link dưới đây:
Ngày nay, hầu hết mọi người vẫn đinh
ninh rằng người Việt Nam chưa bao giờ được sống trong nền dân chủ. Trong
ký ức về lịch sử, đặc biệt là trong 43 năm qua, chỉ có một nước Việt
Nam thống nhất được lãnh đạo và điều hành bởi một đảng duy nhất, đảng
Cộng sản Việt Nam.
Song có lẽ bạn đọc sẽ ngạc nhiên khi
biết rằng ở Việt Nam từng tồn tại một chính quyền có thể được coi là dân
chủ. Đó là mười sáu năm dưới chế độ tổng thống ở miền Nam, gồm thời kỳ
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) và Đệ nhị Cộng hòa (1967-1975).
Dựa vào đâu chúng ta có thể khẳng định như vậy?
Vào thời đó, các quyền căn bản của người
dân được đảm bảo và định rõ trong Hiến pháp (cả hai bản năm 1955 và
1967), như quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và tự do lập hội.
Không chỉ vậy, các quyền này còn được bảo vệ bởi một tòa án bảo hiến.
Nhờ vậy mà người dân miền Nam có thể tham gia vào chính trị.
Quan trọng không kém, chính quyền Cộng hòa Việt Nam được bầu lên thông qua các cuộc bầu cử cạnh tranh
giữa các lực lượng khác nhau như Đảng Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu với
khẩu hiệu “Tự do – Dân chủ – Tiến bộ – Phú cường”, hay Đảng Tân Đại Việt
và Đại Việt Cách mạng Đảng vốn theo đuổi “chủ nghĩa dân tộc sinh tồn”,
cùng nhiều đảng phái khác.
Sự tham gia của người dân và các cuộc
bầu cử cạnh tranh chính là hai tiêu chuẩn căn bản để xem xét một chế độ
có phải là dân chủ hay không.
Đây cũng là quan điểm thịnh hành nhất
ngày nay, được sử dụng để đánh giá các chế độ chính trị, do Giáo sư
Robert Dahl đề xuất trong tác phẩm Bàn về dân chủ.
Dân chủ kiểu cũ
Cách đây 2.500 năm trong thế giới Hy Lạp
cổ đại, nền dân chủ trực tiếp đã ra đời. Tại đó, người dân trực tiếp
tham gia vào công việc cai trị đất nước, mà nổi tiếng nhất phải kể đến
là thành Athens.
Nhưng sau khi Athens cùng các thành bang
của Hy Lạp cổ đại sụp đổ, thì cả thế giới dần bị chi phối bởi các chính
quyền chuyên chế: nào là chế độ phong kiến và quân chủ với những ông
vua, chế độ độc tài quân sự được thống trị bởi các tướng lãnh, hay chế
độ cộng sản với một đảng cai trị, rồi chế độ phát xít kiểm soát mọi mặt
của đời sống xã hội.
Mãi cho tới đầu thế kỷ 19, dân chủ mới quay trở lại.
Nhưng vào lúc đó, quy mô dân số đã quá
lớn và diện tích đất nước thì quá rộng, người dân khó lòng trực tiếp
tham gia vào mọi vấn đề của quốc gia. Họ bèn ủy quyền cho những người
đại diện của mình để quản trị quốc gia nhân danh mình.
Nền dân chủ đại diện ra đời từ buổi ấy.
Năm 1863, ở Nghĩa trang Quốc gia
Gettysburg nằm trên cánh đồng giữa tiểu bang Pennsylvania, một bài diễn
văn dài chưa tới 300 từ đã được xướng lên và đi vào sử sách. Đó là diễn
từ của Tổng thống Abraham Lincoln, nhân lễ tưởng niệm hàng chục ngàn
binh lính đã tử vong trong trận đánh khốc liệt nhất của cuộc nội chiến
Hoa Kỳ.
Trong bài diễn văn ấy, Lincoln đã vinh
danh nền dân chủ rằng: “Chúng ta chính là những người phải hiến dâng
mình cho nhiệm vụ lớn còn ở trước mặt … rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ không bao giờ tàn lụi khỏi mặt đất này.”
Chính ý tưởng này của Lincoln đã được
chính quyền Việt Nam lấy cảm hứng mà đưa vào trong điều 2 bản Hiến pháp
2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, như một
cách tự khẳng định rằng Việt Nam là một nền dân chủ.
Không thể phủ nhận rằng lời diễn thuyết
của Lincoln quả thực hào hùng. Thế nhưng nó hãy còn quá mơ hồ để có thể
trở thành một chuẩn mực.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Xã hội, và Dân chủ ra đời năm 1942, nhà khoa học chính trị Schumpeter cho rằng dân chủ là một phương tiện để người dân trao quyền cho các cá nhân thông qua bầu cử.
Quan điểm mang tính kỹ thuật và thực
nghiệm của Schumpeter trở nên phổ biến trong suốt các thập kỷ sau đó,
đánh bại những định nghĩa thuần túy, không tưởng theo kiểu khẩu hiệu
thời thượng vốn tồn tại từ thời Abraham Lincoln.
Bởi làm sao chúng ta có thể cân đong đo
đếm được một chính quyền có phải của dân (dân kiểm soát), do dân (dân
thành lập), và vì dân (phục vụ dân) hay không, để mà gọi nó là một nền
dân chủ?
Thế kỷ 21 không còn là lúc để chúng ta
dựa vào những áng văn trác tuyệt, những tuyên bố hào hùng, hay những suy
nghiệm mông lung để mà đánh giá một nền dân chủ.
Tiêu chuẩn mới trong kỷ nguyên mới
Giờ đây, các tiêu chuẩn mới về dân chủ bắt đầu được phổ biến rộng rãi, nhưng cũng gây ra không ít hiểu nhầm.
Khá nhiều người vẫn quen đánh đồng dân chủ với bầu cử, chẳng hạn như ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với phát biểu “dân chủ đến thế là cùng” nhờ “quy trình bầu cử thực hiện đúng theo quy chế”.
Đây là cách nhìn nhận sai lệch và phiến
diện. Một cuộc bầu cử dù có 100% người dân đi bầu chăng nữa, cũng không
đủ để làm nên dân chủ.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, các
nhà quan sát sử dụng các tiêu chuẩn cụ thể để xem xét đâu là một nền dân
chủ. Các tiêu chuẩn này được tham chiếu chủ yếu từ cuốn Bàn về dân chủ của nhà khoa học chính trị Robert Dahl.
Robert A. Dahl, giáo sư danh dự tại Đại
học Yale, là người rất có ảnh hưởng trong lĩnh vực Khoa học chính trị.
Ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Ai là kẻ cai trị ra mắt năm 1961, Chính trị đa tâm năm 1971, và Bàn về dân chủ năm 1998. Cả ba tác phẩm đều mạnh mẽ ủng hộ cho chủ thuyết đa nguyên.
Bên cạnh việc nghiên cứu về dân chủ, Robert Dahl còn nỗ lực thúc đẩy “dân chủ hóa” trong từng không gian nhỏ hẹp.
Chính ông đã cố gắng tạo nên một môi
trường học thuật dân chủ hơn tại Đại học Yale, đặc biệt trong những cuộc
nổi dậy của sinh viên trong thập niên 1960.
Năm 1965, Dahl dẫn đầu một ủy ban trao
cho sinh viên quyền đề xuất nhiệm kỳ đối với các giảng viên. Vài năm
sau, ông chủ trì một ủy ban khởi động chương trình học dành cho các sinh
viên người Mỹ gốc Phi. Ông đã dành cả đời mình để cổ xúy cho dân chủ từ
tháp ngà ra đời thực.
Quan điểm về dân chủ của Dahl chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ Schumpeter. Theo Schumpeter, nền dân chủ thể hiện qua
việc các lãnh đạo phải được tuyển lựa thông qua những cuộc bầu cử định
kỳ và công bằng, trong đó các ứng viên tự do cạnh tranh để giành phiếu
bầu, và hầu hết những người trưởng thành đều phải có quyền bầu cử.
Như vậy, dân chủ buộc phải có sự cạnh tranh và sự tham gia, đây chính là điều mà Dahl nhấn mạnh trong chế độ dân chủ thực tiễn.
Theo Dahl, có sáu tiêu chí tối thiểu cho một chế độ dân chủ đại diện hiện đại:
- Các quan chức do dân bầu;
- Những cuộc bầu cử tự do, công bằng, và theo định kỳ;
- Quyền tự do biểu đạt;
- Khả năng tiếp cận thông tin;
- Quyền tự chủ của các tổ chức;
- Mọi người đều có quyền công dân.
Sáu tiêu chí này của Dahl nhằm đảm bảo “hai chiều kích dân chủ”: sự tham gia của người dân và bầu cử cạnh tranh.
Đây chính là khuôn khổ định hình nên thước đo dân chủ hiện đại, nhằm
phân tích xem một quốc gia dân chủ ở mức độ nào, và nó đang trở nên dân
chủ hơn hay kém dần đi theo thời gian.
Dân chủ ngày nay
Khá dễ để phân loại Việt Nam khi mà
chúng ta chỉ thỏa mãn tiêu chí đầu tiên của Robert Dahl. Dựa theo các
tiêu chuẩn này, chúng ta hãy thử xem xét một vài trường hợp phức tạp hơn
trên thế giới.
Singapore là một quốc gia đa đảng, nhưng
có phải là một nền dân chủ hay không? Rõ ràng các cuộc bầu cử của nó
không được tổ chức một cách công bằng và tự do, khi đảng cầm quyền Hành
động Nhân dân PAP luôn kiểm soát tiến trình bầu cử để có lợi cho chính
nó. Thậm chí, tại Singapore, người dân sẽ bị kết tội nếu chỉ trích chính quyền, hay nói những điều mà chính quyền cho là “đe dọa an ninh quốc gia”.
Ở Thái Lan, tuy người dân bầu lên chính
quyền, song thực quyền vẫn nằm trong tay quân đội và hoàng gia. Khi lực
lượng này không ủng hộ chính quyền dân bầu, thì nó có thể tiến hành đảo
chính lật đổ. Điều đó có nghĩa là người dân không có quyền tự chủ trong
chính trị.
Cuộc biểu tình tại Thái Lan diễn ra ngày 22/5/2018 vừa rồi, nhằm kêu gọi
chính phủ quân sự tổ chức bầu cử để trao quyền lại cho chính phủ dân
sự. Trên biểu ngữ đề dòng chữ “Thái Lan, chúng tôi muốn có dân chủ.”
Ảnh: AFP
Cộng hòa Nam Phi suốt nửa sau của thế kỷ
hai mươi cũng không được coi là dân chủ thực sự. Theo chính sách
apartheid, các quyền của người da màu không được thừa nhận tương đương
như người da trắng, bất chấp việc nó có đa đảng và bầu cử tự do, như vậy
nó không thỏa mãn được tiêu chí thứ sáu của Dahl.
Hoặc như chính phủ mới lên của Hungary
đã bóp nghẹt truyền thông tự do của nước này để tự dựng lên một đế chế
riêng – nổi tiếng nhất là vụ tờ Népszabadság bị buộc đóng cửa
sau khi phanh phui các bê bối của giới chức cầm quyền. Hành động này
xâm phạm nghiêm trọng tới quyền tự do biểu đạt. Do vậy, có thể thấy chất
lượng dân chủ của Hungary đang ngày càng suy giảm và có khuynh hướng
quay ngược lại chế độ độc tài.
Nếu như Thủ tướng Anh Winston Churchill
tuyên bố rằng “dân chủ là thể chế chính quyền tệ hại nhất, nếu không
tính tới các kiểu thể chế khác”, thì Robert Dahl cũng có quan điểm tương
tự.
Mặc dù Bàn về dân chủ của
Robert Dahl dành riêng bốn chương để bàn về nền dân chủ lý tưởng, song
ông biết rằng nó vẫn chỉ là câu chuyện “viễn tưởng”. Bên cạnh việc phê
phán những thiếu sót của các nền dân chủ hiện hành, Dahl cho rằng dù sao
thì dân chủ vẫn là hệ thống quản trị tốt nhất trong thực tế.
Tuy nhiên ông không áp đặt các chuẩn mực dân chủ một cách khiên cưỡng.
Đối với Dahl, lý tưởng dân chủ có thể được theo đuổi qua nhiều cơ chế.
Nếu như nước Mỹ theo chế độ tổng thống
thì nước Anh theo mô hình đại nghị, và hệ thống bầu cử ở cả hai nước này
đều đại diện theo đa số. Trong khi đó, tại phần đa các nước Bắc Âu,
người dân bầu chọn ra người đại diện theo tỷ lệ. Tất cả các nước này đều
được coi là dân chủ. Điều này cho thấy dân chủ có thể thể hiện dưới
nhiều dạng thức khác nhau, tùy vào văn hóa chính trị ở mỗi quốc gia.
Phê phán và ảnh hưởng
Bàn về dân chủ của Dahl không phải là một câu chuyện phiêu lưu về dân chủ qua các thời kỳ lịch sử như Làn sóng dân chủ hóa thứ ba của Samuel Huntington, cũng không là một lời cổ xúy cuồng nhiệt như trong Lẽ thường của Thomas Paine, hay một cuộc dạo chơi cùng các thiết chế chính trị dân chủ như Nền dân chủ Mỹ của Alexandre Tocqueville.
Có thể coi Bàn về dân chủ là
một cuốn sổ tay đơn thuần. Ở đó, Dahl làm rõ từng thuật ngữ vốn hay bị
hiểu nhầm và dùng sai, như “cộng hòa”, “dân chủ”, “đại diện”, “hệ thống
đa nguyên”. Dahl cũng phác thảo các vấn đề khác nhau một cách gọn gàng
để những người mới làm quen với khái niệm “dân chủ” có thể dễ dàng tiếp
cận.
Vì Bàn về dân chủ tập trung
nhiều vào các định nghĩa, nên nó đã không đề cập tới tiến trình dân chủ
hóa với các câu chuyện thực hành dân chủ cụ thể. Dahl cũng bỏ sót các
nền dân chủ châu Á, trong khi dành phần lớn mối quan tâm cho kinh nghiệm
dân chủ ở Tây phương, từ Hy Lạp cổ đại cho tới Âu Mỹ ngày nay.
Dù vậy, các phân tích mang tính kỹ thuật
của Dahl đã trở thành nguồn khảo cứu đáng giá cho các nhà nghiên cứu
chính trị thực tiễn.
Các học giả ngày nay có thể so sánh và
đối chiếu các nền dân chủ thông qua ba hệ thống đánh giá chính: Hệ thống
DD (Democracy – Dictatorship), hệ thống Polity IV, và hệ thống Freedom
House. Cả ba thước đo này đều dựa trên quan điểm “hai chiều kích” của
Dahl – là tham gia và cạnh tranh.
Có thể thấy, quan điểm của Dahl đã trở thành khuôn khổ chính yếu cho các thước đo dân chủ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét