Saigontex2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm.

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Saigontex 2013

Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

6 người đi khắp thế gian: Cuốn tiểu thuyết giang hồ thượng hạng

 Copy từ https://reviewsach.net

Bạo lực, nạn phân biệt chủng tộc, quan điểm tình dục & hành trình phiêu lưu của những bạn trẻ qua những miền đất hùng vĩ là câu chuyện xuyên suốt trong cuốn sách Sáu người đi khắp thế gian này.

Nếu có bạn trẻ nào từng ước mơ chinh phục cả thế giới, thì sẽ vô cùng hào hứng khi đọc tập 1 của cuốn 6 người đi khắp thế gian này. Những khi chứng kiến Joe, Brittal hay Monica vượt qua mọi thứ, vứt bỏ tất cả “bỏ nhà ra đi” để chinh phục thế giới, chắc hẳn trái tim người đọc nó cũng sẽ rực cháy theo. Xách ba lô lên và đi thôi nào, các bạn trẻ!
Nhưng rồi, khi đọc hết tập 2, những kẻ mộng mơ nhất có lẽ cũng cần phải trầm ngâm suy nghĩ lại. Tất nhiên du lịch vòng quanh thế giới là một cái sung sướng tột đỉnh của những tâm hồn thích phiêu lưu, nhưng rồi khi giấc mơ chạm mặt đất, có lẽ ai cũng run rợ mà không dám quả quyết với cái mong muốn thuở ban đầu.

Bởi cái chết, chiến tranh & bạo lực xảy ra tức thì, ngay cạnh hành trình của họ.
Vậy thì, an toàn trở về có lẽ là khao khát lớn nhất, chứ không phải là ước mơ chinh phục địa cầu nữa rồi.
Đánh trọng tâm vào ước mơ của những cái tôi thích nổi loạn, không ngoa khi James Albert Michener được mệnh danh là thiên tài thấu hiểu giới trẻ. Qua cuốn tiểu thuyết phiêu lưu giang hồ thượng thặng này, chắc hẳn bạn đọc nào cũng phải gật gù thán phục & công nhận chân lý đó.
Ngoài ra thì 2 cuốn sách này có thể được xem là một bách khoa toàn thư về chiến tranh, chính trị, tôn giáo, tình dục & những nền văn hóa khác nhau. Lượng kiến thức đồ sộ trong mỗi chương sách không khỏi khiến độc giả và ngay cả những nhà nghiên cứu cũng phải trầm trồ.
sáu người đi khắp thế gian

[Tập 1] Nguồn cơn của hành trình chạy trốn hiện thực của sáu con người trẻ tuổi

Tập 1 của cuốn sách giới thiệu 6 nhân vật chính & hành trình từ quê hương bước tới với thành phố mặt trời, Torremolinos ở Tây Ban Nha, một cái tên thật khó nhớ, nhưng là điểm chung của họ, bốn người Mỹ, một cô tiểu thư nhà giàu ở Anh Quốc  & một cô gái Na Uy giàu nghị lực đầy khát khao vươn tới ánh sáng.
Cả 6 người với những lý do khác nhau và vô tình gặp nhau tại một nơi để rồi cuối cùng bánh xe định mệnh chở họ đi phiêu bạt giang hồ. Trước khi nói về hành trình đầy bất ngờ ấy, chúng ta sẽ cùng điểm qua khởi nguồn của mọi chuyện qua lời kể của nhân vật tôi – George Fairbanks, một ông già 61 tuổi vô tình quen biết với cả 6 người và cũng là người hướng dẫn các bạn trẻ trong suốt chặng đường chinh phục thế gian của họ.

Joe – tuổi trẻ là chân thật

Không có người nào điên rồ tới mức muốn chiến tranh hơn hoà bình: vì trong thời bình con trai chôn cất cha, còn trong thời chiến thì cha chôn cất con trai. (Herodotus)
Có một anh chàng sinh viên tên là Joe vì chán ghét chiến tranh & thông điệp chính trị cùng lời kêu gọi nhập ngũ chỉ để đi đánh nhau, đã quyết định vứt bỏ thẻ quân dịch của mình. Anh trở thành kẻ tị nạn chính trị khi mới 20 tuổi, rời đất nước để đến một nơi xa lạ dưới sự giúp đỡ của những lực lượng không ủng hộ chính phủ.
Ngày 1 tháng Giêng năm 1969, Joe bắt đầu hành trình đi vào cảnh lưu đày. Anh không hề nghĩ đến việc gọi điện thoại cho ông bố bà mẹ bất lực của mình: bởi anh hiểu là cha anh sẽ cằn nhằn còn mẹ anh sẽ khóc lóc….
Hành trình đến với thành phố mặt trời của Joe đúc kết bằng 2 từ : điên rồ! Nhưng tuổi trẻ có ai lại không muốn được một lần như anh ta cơ chứ!
Một kẻ thà bỏ trốn khỏi quê nhà chứ không nhất quyết “yêu đại một cô nàng nào đấy, tính kĩ chu kỳ rụng trứng & làm cô ta có bầu” để tránh quân dịch, một sinh viên luôn ám ảnh trong đầu là những băn khoăn với ý nghĩa “tội nghiệp người da đen phải đi lính, người da trắng thì không; người nghèo bị lôi ra trận, người khờ dại bị lùa đi lính & có thể bị bắn chết, người giàu & người thông minh thì sống an nhàn! Và Joe quy mọi tội lỗi, chán chường cảnh giả tạo là do một chính phủ đã thối nát và sai lầm từ gốc rễ. Anh không sử dụng những thủ đoạn đê hèn để trốn quân dịch như bao người “khôn ngoan” khác. Thậm chí ngay khi được hỏi lần cuối cùng, anh thà ra đi như một tội phạm chứ không thèm nhận lỗi vì đã gửi thư trả lại thẻ quân dịch. Và rõ ràng ra đi là một lựa chọn khôn ngoan, chí ít thì còn hơn là vùi những năm tháng trẻ tuổi của anh ở trong tù!
Chính những suy nghĩ dẫn Joe đến hành trình đi khắp thế gian sau này, là một minh chứng cho sự ngạo nghễ của những con người trẻ tuổi. Quyết tâm của Joe đủ lớn, để hành trình đi đến thành phố Torremolinos (một nơi mà người ta nói đủ mọi thứ tiếng trừ Tây Ban Nha) của anh trở nên dễ thở hơn bao giờ hết, dù lúc ra đi trong túi anh không có lấy một xu đáng tiền.

Britta – cô gái Na Uy và khát vọng nhìn thấy mặt trời

Britta được miêu tả là một cô gái đầy nghị lực xuất phát từ đảo Tromso, cách vòng Bắc cực hai trăm dặm về phía bắc. Lý do cô muốn rời xa quê hương rất đơn giản : cô khao khát được nhìn thấy tia sáng ấm áp từ Mặt trời, trốn xa vùng đất Na Uy tù túng!
Khá nhiều người bị bệnh lãnh cảm sau khi trải qua một trải nghiệm tình dục tồi tệ trong quá khứ, chẳng hạn như bị cưỡng bức, bị bạo hành…Tuy nhiên với Britta, một nạn nhân của lão già ghê tởm (bị hãm hiếp khi chỉ mới 15 tuổi), đã hoàn toàn vượt qua được vấn đề này và có những trải nghiệm ngọt ngào với anh chàng bạn trai lúc chỉ mới 18 tuổi.
Và đặc biệt hơn, dù anh chàng kia có khả năng làm tình tuyệt vời đến mấy, cô vẫn quyết định rời bỏ anh ta để ra đi đến với thành phố Mặt trời, với hành lý là một tấm vé đã bóc sạch số tiền của cô dành dụm được trong suốt thời gian ở quê nhà
Tại sao cô gái trẻ lại dũng cảm từ bỏ quê hương để chạy đến một nơi xa lạ không người thân thích? Có 2 lý do.
Một là vì bố cô, một người hùng của quá khứ khi chống phát xít ở chiến tranh thế giới, và một gã thất bại ở hiện tại khi mà giấc mơ đi đến hòn đảo Cleylon của ông chỉ mãi mãi là ảo vọng. Ông chỉ biết mơ ước vào ban đêm với những câu hò của Thợ mò ngọc trai, trong khi ban ngày thì vất vả kiếm sống ở một công ty xuất nhập khẩu, một nhân viên quèn với đồng lương chết đói.
Lý do thứ hai.  Hằng năm cứ đến và ngày hai mươi hai tháng Chín, trong chu trình lên xuống đã định trên khoảng trời, ngay cả giữa trưa mặt trời cũng khuất dưới đường chân trời, nghĩa là ngày thì ngắn và đêm thì dài vô tận. Người dân ở Tromso nói rằng “chúng ta đã ở trong đường hầm”. Nghĩa là bóng tối gần như bao phủ toàn bộ thời gian của khu vực, ngoại trừ một màn sương xám mỏng manh lúc 12h trưa.
Với Britta thì đường hầm đó vô cùng khủng khiếp. Cô khao khát đi đến thành phố nào đó khác, để được thấy Mặt trời!
“Khi bạn mơ ước một thứ gì đó, cả vũ trụ sẽ chung tay giúp đỡ bạn” Câu nói của Nhà giả kim rất thích hợp để minh họa về trường hợp này của Britta. Với những nỗ lực phi thường của cô cộng thêm một may mắn không thể tin nổi, Britta đã có tấm vé để đến Toremolinos, đối với người khác thì đó là một chuyến du lịch 15 ngày đơn thuần, còn đối với cô, đó là một hành trình một đi không trở lại, nơi cô mơ ước được sống một cuộc đời khác, một hành trình rạng rỡ dưới ánh mặt trời.
“Con sẽ không bao giờ quay lại…không bao giờ. Mẹ nói với cha nhé.”

Monica – Cô tiểu thư người Anh và hành trình lang bạt không mục đích

Nếu như Joe rời tổ quốc chỉ để trốn tránh cái hiện thực đáng chán là anh phải làm những việc vô đạo đức để tránh quân dịch, hoặc là nhập ngũ để chiến đấu với một lý tưởng không hòa bình. Anh rời quê một cách đầy anh dũng, từ bỏ thiên đường của nhiều người để đến một nơi đầy bão tố mà anh chưa từng tưởng tượng.
Nếu như Britta bỏ nhà ra đi chỉ vi khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn, để quên đi ngày tháng bình dị đến chán ngán cùng những người tình chẳng đi đến đâu. Một nỗ lực, một ý chí của một cô gái trẻ đáng ngưỡng mộ.
Thì Monica, tiểu thư Monica là đại diện cho một hình ảnh vô cùng không đẹp của tuổi trẻ. Hiếu thắng, không màng đến kết cục & sống bù khú vấp váp ngớ ngẩn với ma túy và tình dục. Mặc dù lý do cô ra đi, chán ghét sự lãnh đạo của cha cô tại cộng hòa Vwadra, một quốc gia châu Phi giả tưởng, và muốn tránh xa cái bóng quá lớn của ông ấy, một phát ngôn viên, một chính trị gia, một nhà ngoại giao Anh thất bại thảm hại.
Nhưng cô chạy trốn với không mục đích và không biết đến ngày mai. Và rồi ma túy và tình dục cũng những cơn say “hết mình” không giúp cô tốt đẹp hơn, mà ngược lại.
Tuổi trẻ và phá cách, đó là những gì ngắn gọn và tốt đẹp nhất để nói về Monica. Đáng khen là những quyết định táo báo của cô, và đáng trách cũng là những quyết định ấy.
Sẽ không bàn nhiều về cô gái này ở bài review này nữa, tuy nhiên độc giả có thể tự nhìn lại mình khi đọc tới những vấn đề mà cô gái mạnh mẽ này đã trải qua, chiêm nghiệm nó và tự ra nhận xét cho riêng mình.

Anh chàng da đen Cato và nạn phân biệt chủng tộc

Bạn đọc quan tâm tới nạn phân biệt chủng tộc có lẽ sẽ rất thích thú khi được nghe tác giả tỉ mỉ miêu tả về anh chàng da đen Cato và hành trình đến với thành phố Mặt Trời.
“Về người Mỹ da đen, môt câu đơn giản tóm tắt lịch sử xác đáng của đất nước chúng ta: được thuê cuối cùng, bị đuổi đầu tiên”
“Suốt 364 ngày trong năm, người da đen kiên nhẫn chịu đựng một nỗi thống khổ hẳn sẽ đẩy người da trắng vào thế phải tự vẫn. Ngày thứ 365, anh ta trốn thoát bằng cách ở nhà uống say bí tỉ, và rồi nhân viên xã hội báo cáo, “Anh ta không có khả năng làm việc, như thường lệ”
Khắc họa sự bất công đối với người da đen, tác giả miêu tả những vụ bạo loạn, sự kém hiểu biết của họ đồng thời không quên nói về những kỳ thị, ác cảm của những người da trắng đối với họ. Hơn thế, nạn phân biệt chủng tộc còn nặng nề hơn qua sự dối trá và ngớ ngẩn đến từ báo chí và truyền thông!
Với những kẻ kém hiểu biết chỉ nhận thông tin một chiều, họ sẽ cho rằng Cato là một kẻ khủng bố, theo đạo Hồi và là một tay súng nguy hiểm. Còn đối với nhân vật tôi trong truyện, Cato chỉ đơn giản là một anh chàng da đen dễ mến và thức thời. Nhưng dù sao thì anh cũng là một kẻ chạy trốn vì một cuộc đấu tranh cho sự công bằng của chủng tộc.

Yigal, một anh chàng Do Thái với trí tuệ phi thường và một trái tim nóng ấm

Đọc phần miêu tả về Yigal, người đọc hoàn toàn có thể hình dung được nền tảng giáo dục của gia đình và môi trường sống ảnh hưởng như thế nào tới tương lai con trẻ.
Yigal là một trường hợp đặc biệt như thế. Anh mang cả hai quốc tịch Mỹ và Irasel, và khi tổ quốc Do Thái cần, anh sẵn sàng vứt bỏ tương lai tốt đẹp ở Hoa Kỳ để sát cánh với những người lính bên chiếc xe tăng, bất chấp sự phản đối của gia đình. Nhưng sau chuyện đó, lại khiến anh đau đầu cho tương lai khi phân vân không biết nên làm gì tiếp theo, trở về Mỹ làm một sinh viên ưu tú ở đại học Michigan theo ý ông ngoại, hay sang Anh theo ý ông nội để trở thành nhà khoa học chuyên tâm nghiên cứu tại Cambridge. Hay là về Israel, ghi tên vào trường Technion ở Haifa.
Bế tắc trong việc lựa chọn tổ quốc cho riêng mình, là Irasel hay là Mỹ, hay là công dân Anh, và thế là Yigal chạy đến Tây Ban Nha du lịch, và cuối cùng theo chân các bạn trẻ khác làm một vòng quanh thế giới.
Tuổi trẻ tươi đẹp, sống cháy hết mình, chính là những hình ảnh nói về Yigal
Thông qua câu chuyện về Yigal, tác giả khắc họa tài tình về sự bất ổn, chiến tranh tại Quốc gia khởi nghiệp Irasel với trận chiến 6 ngày trong đó Yigal đóng vai trò chủ chốt, đồng thời James Michener cũng đã lý giải vì sao đất nước Do Thái này vẫn là điểm đến đáng mơ ước của nhiều người mặc dù tình trạng chiến tranh luôn tiếp diễn.
Thêm một lần nữa, kho kiến thức đồ sộ của tác giả về chính trị, khoa học, địa chất được khai thác tối đa. Và cuốn bách khoa thư này vẫn chưa có điểm dừng.

Gretchen, cô gái của Niềm hy vọng Mỹ

Nếu như Britta ứng xử tuyệt vời sau khi bị lạm dụng tình dục, thì Gretchen mãi mãi bị ám ảnh bởi một vụ tương tự, dù cô gái này thậm chí còn mạnh mẽ hơn cô gái Na Uy khi dám đứng lên đấu tranh chính trị cho một nền dân chủ Mỹ.
Đánh đàn ghi ta điêu luyện, hát hay và sẵn sàng chết vì McCarthy, vay 200$ để làm phí đào thoát cho một anh chàng trốn quân dịch, Gretchen tìm mọi cách làm có thể để tin vào một nước Mỹ tốt đẹp hơn. Gọi Gretchen là niềm hy vong Mỹ thật không sai chút nào.
Viết về Gretchen, tác giả lồng vào đó những khúc ballad ngọt ngào của các bản nhạc Child 305 khúc được cô gái nhỏ nhắn này thể hiện, trước khi miêu tả kĩ càng về cơn ác mộng đã biến Grettchen trở nên hoang mang: bị lạm dụng tình dục bởi cảnh sát, trong khi cô đấu tranh vì hòa bình cho đất nước!
Lãng mạn với ballad hoa hồng & vỡ mộng vì tiếng súng! Miêu tả về Gretchen thế có lẽ là đủ.
Nhưng không, cô gái này còn làm được nhiều điều tích cực hơn thế. Là điểm sáng hiếm hoi mà 5 người còn lại không làm được, dù xuất phát điểm của cô có thể nói là kém hơn so với phần còn lại. Những ý tưởng tươi mới của cô trong tập 2 sẽ là khúc giáng ca ngọt ngào mà tác giả hiếm hoi thể hiện cho bạn đọc vì một ngày mai tươi sáng.
Hết tập 1, đã xong màn dạo đầu, và hành trình của các bạn trẻ cũng mới chỉ ở bước đầu tiên!
Có vẻ như tác giả rất giỏi khi miêu tả một thế giới đầy biến động với chiến tranh vùng Trung Đông, chiến tranh Việt Nam, nạn phân biệt chủng tộc, … Tuy nhiên, sống trong một hiện thực tàn khốc như thế, những thanh niên vỡ mộng về một cuộc sống màu hồng chỉ còn biết cách chạy trốn. Trong suốt tập 1, chàng trai trẻ Joe chỉ biết trốn quân dịch, không thèm đấu tranh cho nó, Britta thì không có ý định trở về nhà để làm một cái gì đó tươi sáng hơn cho nơi cô được sinh ra, Monica chết sau hành trình phiêu bạt, các đại diện khác của những cuộc giải phóng dân tộc ở châu Phi cũng…chẳng làm gì khá hơn.
Các bạn trẻ phản kháng với xã hội rất tốt, nhưng chưa góp phần xây dựng nó trở nên tốt đẹp hơn. Và rõ ràng là tác giả cũng không có giải đáp cho những bài toán của hiện thực đương thời, một thế giới bất ổn và nhiều nguy cơ bùng nổ

[Tập 2] Đêm phương nam ở Tây Ban Nha, Bò tót & Rừng rậm châu Phi đầy ám ảnh

Thay cho lời kết: Đôi điều về tác giả & tác phẩm

James Albert Michener là nhà văn nổi tiếng người Mỹ với trên 40 đầu sách. Ông từng học và giảng dạy ở nhiều trường đại học, nhận bằng thạc sỹ văn chương năm 1937 và có hơn 30 học vị tiến sĩ danh dự về nhân văn, luật, thần học & khoa học.
Các tác phẩm của Michener bán được gần 80 triệu bản trên khắp thế giới, nhiều lần được chuyển thể thành phim và nhận rất nhiều giải thưởng văn học uy tín (Giải Pulitzer, giải Franklin, Huy chương Vàng của Viện nghiên cứu Tây Ban Nha, giải Einstein của Einstein Medical College…)
Michener đã tặng hơn 100 triệu đô la tiền nhuận bút cho một số trường đại học, thư viện, viện bảo tàng, chương trình nghiên cứu…
Bảo tàng Nghệ thuật ở Doylestown, Pénsylvania, quê ông mang tên tên Michener.
Sáu người đi khắp thế gian (tên gốc là The Drifters) được xuất bản năm 1971 và suốt sáu tháng liền nằm trong danh sách những tác phẩm bán chạy nhất New York.











Thứ Hai, 5 tháng 11, 2018

CHỮ QUỐC NGỮ NƯỚC TA : TỪ ALEXANDRE DE RHODES ĐẾN TRƯƠNG VĨNH KÝ

Trong hình ảnh có thể có: 1 người, văn bản• Năm 1625, Alexandre de Rhodes, tên Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, đi thuyền tới Việt Nam, không ai ngờ rằng thời điểm này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao của ngôn ngữ Việt. Đó là sự bắt đầu hình thành của chữ Quốc ngữ. Trong 300 năm, chữ Quốc ngữ đã phải trải qua bao nhiêu sóng gió rồi cuối cùng thay thế hoàn toàn được chữ Nôm, chữ Hán để trở thành chữ viết của người Việt. Chữ Quốc ngữ được xây dựng theo nguyên tắc ký âm bằng chữ cái Latin (a,b,c,…), nên tương đối đơn giản, tiện lợi, dễ học, dễ nhớ, đã giúp cho người Việt dễ dàng hội nhập với các nước dùng chữ Latin hơn so với các nước theo chữ Hán như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay những nước theo chữ Ả Rập. Sự hội nhập nhanh chóng này cũng tác động một phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí của một quốc gia. Như hiện nay trong vấn đề giao dịch qua Internet, chữ Quốc ngữ đã có rất nhiều lợi thế hơn hẳn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Hán vừa khó đọc, khó viết và lại thêm khó sử dụng. Cũng từ đấy, người Việt đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, mặc dù nước ta đã bị phương Bắc đô hộ 1.000 năm. Đây có thể nói là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao.
Bắt đầu với 8.000 từ ngữ đã được các giáo sĩ Bồ Đào Nha phiên âm vào thế kỷ thứ 17 với công dụng là truyền giáo, chữ Quốc ngữ đã không ngừng phát triển để đáp ứng được nhu cầu của người Việt trước những biến chuyển liên tục của văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và nhất là khoa học kỹ thuật. Giờ đây chữ Quốc ngữ đã có chỗ đứng vững vàng trong ngôn ngữ Việt Nam và đã có hơn 200.000 từ để có thể phiên dịch cuốn tự điển Anh quốc Oxford Advanced Learner‘s English Dictionary mà không bị lúng túng vì thiếu chữ, thiếu từ .Một số quốc gia khác cũng có những cố gắng để dùng phương pháp ký âm bằng chữ Latin, trong đó có nước Nhật với chữ Rōmaji. Nhưng chữ Rōmaji vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai, người Nhật vẫn chưa bỏ được chữ tượng hình của họ.
# Trước chữ Quốc ngữ, người Việt viết chữ gì?
Trước khi có chữ Quốc ngữ, người Việt đã có chữ Khoa đẩu, chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Khoa đẩu hay còn gọi chữ nòng nọc là chữ Việt cổ xuất hiện trong nền văn hóa tiền Việt-Mường, được tìm thấy trên các trống đồng, trên đá hay các di vật cổ xưa để lại. Khoa đẩu có nghĩa là đầu lớn, để chỉ hình tượng của chữ này: đầu lớn và những nét giống hình con nòng nọc. Đây là loại chữ tượng thanh, ghép nhiều chữ lại thành từ. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông nhắc đến tích là thời vua Nghiêu (2000 năm trước Công Nguyên) nước Việt Thường (vùng Nghệ An – Hà Tĩnh) tặng con rùa ngàn năm trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu: "Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” (nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu).
Sau khi chiếm được nước Nam Việt của Triệu Đà, nhà Hán thi hành chính sách Hán hóa dân tộc Việt. Các thái thú như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp bắt đốt hết sách vở còn như tướng Mã Viện (năm 43) thì tìm cách tận thu trống đồng. Người Việt bị bắt buộc phải dùng chữ Hán thay cho chữ Khoa đẩu và tưởng chừng như chữ Việt cổ đã bị thất truyền. Nhưng gần đây có ông Đỗ Văn Xuyền đã tuyên bố giải mã được chữ Khoa đẩu sau 50 năm mày mò tìm kiếm. Ông viết được bằng chữ Khoa đẩu bài Hịch của Hai Bà Trưng kêu gọi khởi nghĩa (năm 4.
Chữ Hán còn gọi chữ Nho hay chữ Trung Hoa là chữ tượng hình biểu ý. Người Việt ngày xưa sử dụng hai thứ tiếng: một là tiếng Hán Việt (đọc chữ Hán theo âm Việt) dành cho giới quan lại và khoa bảng và hai là tiếng Việt được sử dụng trong dân gian. Về chữ cũng vậy chúng ta có chữ Hán và chữ Nôm. Để ghi được tiếng nói của mình, người Việt đã sáng chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán nhưng lấy âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt. Chữ Nôm đã được hình thành bằng nhiều cách khác nhau, như ghép hai chữ Hán với nhau, thí dụ chữ „mắt“ ghép từ chữ „mục“ (biểu ý) và „mạt“ (biểu âm) hay mượn âm chữ Hán như chữ „tốt“ có nghĩa là „binh lính“ (chữ Hán) để ghi từ „tốt“ trong „tốt xấu“ của chữ Nôm .Có nhiều giả thuyết cho rằng chữ Nôm đã có từ thế kỷ thứ 3. Cũng có một số giả thuyết khác cho là chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ thứ 8, thời Phùng Hưng dấy quân khởi nghĩa dành lại độc lập cho Việt Nam (năm 791). Sau khi mất, Phùng Hưng được tôn vinh là Bố Cái Đại Vương. Bố Cái viết bằng chữ Nôm là Cha Mẹ. Nhưng đến thế kỷ 13, chữ Nôm mới được chính thức ghi nhận là xuất hiện qua bài văn “Tế cá sấu” bằng chữ Nôm do Nguyễn Thuyên được vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) sai làm để đuổi cá sấu.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm còn được lưu truyền đến ngày hôm nay như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục vân Tiên, Lục Súc Tranh Công,… cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Thuyên, Bà Huyện Thanh Quan, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tế Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,... Trong đó, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc nhất mà gần như người Việt nào cũng biết.
Đây là một thí dụ để thấy sự khác biệt giữa chữ Hán và chữ Nôm:
Hai câu trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, viết bằng chữ Hán:
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
(Mạch thượng tang, mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường)
viết bằng chữ Nôm do bà Đoàn Thị Điểm diễn dịch qua thể thơ song thất lục bát:
岸橷撑屹𠬠牟
𢚸払意妾埃愁欣埃
(Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?)
Sau khi chữ Khoa đẩu bị thất truyền, tưởng như thế người Việt sẽ bị hoàn toàn Hán hóa.
Nhưng không, người Việt lại một lần nữa mày mò sáng tạo ra chữ Nôm để ghi tiếng nói của mình. Cha ông chúng ta ý thức rất rõ ràng một dân tộc muốn tồn tại phải có chữ viết riêng.
# Alexandre Rhodes và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ
Vào thế kỷ 17, các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam để truyền đạo. Trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, có tên tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, thuộc dòng Tên (Jésuite) sinh năm 1591 ở Avignon miền nam nước Pháp. Năm 1625, ông cập bến Hội An ở Đà Nẵng và bắt đầu học tiếng Việt của một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Trong vòng 20 năm, ông đã bị trục xuất 6 lần. Tuy thế ông vẫn tìm cách trở lại Việt Nam, lúc đến Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên để truyền giáo, lúc đến Đàng Ngoài của chúa Trịnh Tráng. Cuối cùng vào năm 1645, ông bị chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất ra khỏi Việt Nam. Năm 1660, tức là 15 năm sau ông mất tại Ispahan ở Ba Tư (Iran). Tác phẩm của ông để lại là cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La
Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum. Đây là cuốn tự điển đầu tiên bằng ba thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha và Latin. Ông dùng chữ Latin nhưng lấy âm Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng Việt. Ông còn mượn thêm dấu lấy từ tiếng Cổ Hy Lạp (sắc, huyền, ngã,
…) để dùng cho 6 thanh điệu của tiếng Việt: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.
Ngoài ra còn một tác phẩm nữa của ông cũng không kém phần quan trọng, cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latin: Catechismus). Đây là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, sử dụng ngôn ngữ bình dân của người Việt vào thế kỷ 17. Qua cuốn sách, chúng ta có thêm rất nhiều dữ kiện đề nghiên cứu tiếng nói của người Việt vào thế kỷ đó.
Thật sự Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Nói đúng hơn, ông chỉ là người có công lớn trong việc hệ thống hóa ký âm tiếng Việt bằng chữ Latin và đã phổ biến chữ Quốc ngữ qua việc in cuốn tự điển Việt-Bồ-La vào năm 1651 tại Roma. Trước đó, vào thế kỷ 16 đã có các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam truyền giáo. Họ đã tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin để cho tiện việc giảng đạo mà không cần phải biết đọc hay biết viết chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên nhân chính là chữ Hán đối với họ đã khó đọc khó viết, lại thêm vào đó chữ Nôm còn rắc rối hơn một bậc. Chữ Nôm dựa vào chữ Hán nên muốn biết chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước và ngoài ra chữ Nôm không được thống nhất nên mỗi người có thể viết theo một cách khác nhau. Các giáo sĩ dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa.... là những người đi tiên phong trong công việc khai sáng ra chữ Quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở trường dạy tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó có Alexandre de Rhodes. Trong lời tựa cuốn tự điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes viết là ông đã dựa trên hai cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của Antonio Barbosa.
Rồi hơn 100 năm sau, giám mục Adran cho ra bộ tự điển Việt-Latin Dictionarium Anamitico-Latinum (năm 1773) do chính ông biên soạn, được viết bằng chữ Latin, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ông còn có tên Việt là Bá Đa Lộc hay còn gọi là Cha Cả, tên Pháp Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, sinh năm 1741 tại Pháp và mất năm 1799 tại Sài Gòn. Ông cũng là người đã từng giúp Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Nên sau khi mất, ông được nhà Nguyễn sắc phong cho danh hiệu Bi Nhu Quận công
Tiếp theo đó, năm 1838 giáo sĩ Tabert đã cùng với linh mục Philipphê Phan Văn Minh cho in tại Ấn Độ cuốn Từ điển Anamitico-Latinum Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị hay còn được gọi là Tự điển Tabert.
Đáng kể nhất là gần đây trước 1975, đã tìm thấy được một số tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Philipphê Bỉnh ở Lisabon, thủ đô của Bồ Đào Nha. Người ta chỉ biết Philipphê Bỉnh sinh tại Hải Dương năm 1759, ngoài ra về tiểu sử của ông thì hình như không ai rõ .Ông thụ phong Linh Mục dòng Tên năm 34 tuổi và ba năm sau qua Bồ Đào Nha với sứ mệnh là xin vua Bồ Đào Nha can thiệp với Tòa Thánh La Mã bãi bỏ lệnh đóng cửa dòng Tên ở Việt Nam. Ông đã ở lại đây đến cuối đời (năm 1832). Thời gian hơn 30 năm ở Bồ Đào Nha, ông đã viết hơn 21 cuốn sách bằng chữ Quốc ngữ, có cuốn đã in có cuốn viết tay. Sách ông bao gồm những đề tài có tính cách biên soạn tự điển, ký sự, nhật ký,… Đặc biệt là tác phẩm du ký Sách sổ sang chép các việc. Trong cuốn này tác giả viết rất tỉ mỉ trung thực những cái nhìn của ông về thời đại ông đang sống và nơi ông đi qua. Đây là một cuốn sách chữ Quốc ngữ do người Việt viết chứ không do một nguời ngoại quốc, nên nó tương đối rất gần với tiếng Việt bây giờ.
Ở thế kỷ 17, là thời điểm chữ Việt được khai sáng. Đọc những tác phẩm vào thời kỳ này vẫn còn thấy nhiều chỗ khó hiểu và tối nghĩa. Tuy mang tiếng ký âm từ tiếng Việt nhưng nhiều phát âm khác xa với tiếng Việt hôm nay. Trái lại sang thế kỷ thứ 18, chữ Quốc ngữ đã vào thời kỳ hoàn chỉnh. Với những tác phẩm của Philipphê Bỉnh đã chứng tỏ chữ nghĩa thời đó đã tiến gần với tiếng Việt ngày nay, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của chữ Việt trong một thế kỷ qua. Nhưng tựu trung chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17 hay 18 vẫn chỉ dùng trong nhà thờ mục đích để giảng đạo và chưa được truyền bá nhiều ra ngoài. Người Việt với tinh thần bài ngoại để sinh tồn, nên lúc đó họ đã không chịu tiếp nhận chữ Quốc ngữ là chữ viết của mình. Phải đến cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ mới thật sự phát triển vượt bực để trở thành đúng như tên của nó đã được đặt „chữ của một quốc gia“.
# Trương Vĩnh Ký và thời kỳ phát triển chữ Quốc ngữ
Năm 1862, nguời Pháp sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông của miền Nam Việt Nam và năm 1867 lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại, họ bắt đầu xây dựng nền hành chánh ở Việt Nam rập khuôn mẫu từ Pháp mang qua. Lúc đầu, chữ Pháp được sử dụng trong mọi văn tự hành chánh thay cho chữ Hán. Sau này, dần dần chữ Pháp được thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Ngày 1.1.1879 chính quyền thực dân Pháp chính thức ra nghị định bắt buộc Việt Nam phải dùng „tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin“ trong hệ thống hành chính, với ý định tách người Việt hoàn toàn ra khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa. Thời gian đầu, người Pháp một mặt thì cưỡng bách một mặt thì vuốt ve để cho người Việt đi học trường dạy chữ Quốc ngữ. Trường Trung Học Adran (1861 - 1887) lả trường dạy Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn [5]. Sau này vào năm 1954, trường Adran Sài Gòn được chia thành 2 Trường: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
Song song với việc mở trường dạy học, người Pháp còn cho ra tờ Gia Định Báo (1865 - 1897) là tờ báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được ra mắt vào năm 1865 tại Sài Gòn. Lúc ban đầu tờ báo này chỉ là một công cụ thông tin của Pháp, từ năm 1869 được giao cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc và Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút. Từ đó tờ Gia Định Báo mới thật sự khởi sắc, vì đã được phát triển thêm các mục biên khảo, lịch sử, thơ văn, nghệ thuật…. Tờ báo này đã góp phần không nhỏ vào việc cổ động học chữ Quốc ngữ, khuyến khích theo tân học, mở đường cho sự sáng tác các thể loại thơ văn bằng chữ Quốc ngữ và tạo nền móng cho sự nở rộ của báo chí Việt Nam sau này.
Nói đến Gia Định Báo, thì không thể không nhắc đến Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) còn có tên là Petrus Ký làm giám đốc tờ báo. Ông là một con người có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, trong lĩnh vực văn hóa lẫn trong lĩnh vực xã hội, khoa học. Ông dịch sách chữ Hán, phiên âm ra chữ Quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công, Gia huấn ca,… và biên soạn Chuyện khôi hài, Chuyện đời xưa,… Ông để lại cho hậu thế một gia tài khổng lồ với 118 tác phẩm, gồm những sách nghiên cứu, sưu tầm, phiên âm, dịch thuật trong đó có cả chục tác phẩm bằng Pháp văn. Ông thông thạo 27 ngoại ngữ, được tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse. Sự nghiệp của ông thật là phi thường và hiếm có nhất là trong giai đoạn giao thời giữa văn hóa Đông Tây ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông luôn tìm cách cổ võ cho sự sử dụng chữ Quốc ngữ. Ông viết trên Gia Định Báo ngày 15.4.1867: „Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết“.
Nhận ra được sự lợi ích của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ dễ đọc dễ viết, nên vào đầu thế kỷ 20, một số trí thức Việt Nam trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc,.. đã đứng ra mở ở Hà Nội trường Đông Kinh nghĩa thục (3.1907 - 11.1907) để đẩy mạnh phong trào canh tân đất nước. Trường dạy học miễn phí với mục đích chính là khai trí cho dân. Trường nhanh chóng trở nên nổi tiếng, sau này trở thành một phong trào. Chủ trương của trường là bỏ lối học từ chương khoa cử, theo tân học thực tiễn, sử dụng chữ Quốc ngữ trong các hoạt động văn hóa và gíáo dục như in sách giáo khoa, dịch thuật, báo chí. Truờng cử nguời đi khắp nơi để diễn thuyết, cổ động cho cải cách, bài trừ hủ tục, và còn ra hai tờ báo Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo làm cơ quan ngôn luận cho trường. Mặc dù chỉ sống được một giai đoạn ngắn, từ tháng 3 năm 1907 đến tháng 11 năm 1907, truờng Đông Kinh nghĩa thục đã tạo một tiếng vang lớn vào thời đó. Những câu thơ, câu vè đã được trường đặt ra để kêu gọi mọi người bỏ cũ, theo mới, học chữ Quốc ngữ vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay;
Trong lịch sử phát triển chữ Quốc ngữ không thể vắng bóng khuôn mặt của Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936). Ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội, làm chủ bút tờ Đăng cổ tùng báo (3.1907 - 11.1907), là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội và cũng là một tờ báo đầu tiên do tư nhân lập ra. Tờ Đăng cổ tùng báo đã đánh dấu một khúc quanh mới của báo chí Việt Nam không chỉ đơn thuần hoạt động trong phạm vi văn hóa nghệ thuật mà còn đi vào trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và đã phản ảnh được cuộc sống thực tại ở Viêt Nam thời đó. Đứng trước các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục đang bùng nổ, người Pháp đã phải đóng cửa Đăng cổ tùng báo, vì tờ báo dám cổ vũ cho tự do, dân chủ. Năm 1913 ông cho ra tờ Đông dương Tạp chí (1913 - 1919) để truyền bá chữ Quốc ngữ và tư tưởng Âu Tây bằng những tác phẩm của nước ngoài do ông dịch như: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Những người khốn khổ tiểu thuyết của Victor Hugo,…. Ông còn dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Ông thành lập ra hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách và là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp. Ngoài ra ông còn hoạt động cho trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi Phan Chu Trinh, người phát động ra phong trào Duy Tân, bị bắt năm 1908, ông đã cùng với bốn người Pháp ký tên đòi Pháp phải trả tự do cho Phan Chu Trinh. Cuộc đời ông là một chuỗi dài của ngày tháng cống hiến cho đất nước, cho văn học, cho báo chí Việt Nam. Ông đã nhắn nhủ lại cho hậu thế: „Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ“. Nguyễn Văn Vĩnh và Trương Vĩnh Ký được nhiều người sau này vinh danh là: „Ông tổ của nghề báo Việt Nam“ .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển chữ Quốc ngữ, không thể quên được sự đóng góp của Phạm Quỳnh (1892 – 1945). Ông bút hiệu là Thượng Chi, là một nhà văn hóa, nhà văn và nhà báo. Ông đã viết rất nhiều bài về văn học, triết học, tùy bút và dịch từ những tác phẩm của Pháp ra tiếng Việt. Tất cả tác phẩm của ông được đăng trên tờ Nam Phong tạp chí (1917 - 1934) do ông làm chủ nhiệm và chủ bút. Tạp chí dã được đánh giá cao về mặt trí thức và tư tưởng. Có người còn ví rằng Nam Phong Tạp Chí như một bộ bách khoa toàn thư của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chỉ cần đọc đều đặn tạp chí này là đã có một số vốn kiến thức căn bản mà không cần phải biết chữ Pháp hay chữ Hán. Ông viết nếu chúng ta biết giữ gìn văn hóa của dân tộc, biết giữ gìn tiếng nói, chữ viết của dân tộc thì chúng ta không sợ bị mất nước: „Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
Năm 1933, văn học Việt Nam có những chuyển biến rất mạnh mẽ đó là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam,… khởi xướng. Đây là một tổ chức văn học đầu tiên ở Việt Nam có tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều). Hoạt động chủ yếu của Tự Lực Văn Đoàn là viết văn, làm báo và in sách. Họ ra được 2 tờ tuần báo Phong hóa (1932 - 1936) và Ngày nay (1936 - 1946). Tự lực Văn Đoàn đã đi tiên phong trong lãnh vực tiểu thuyết mới và thơ mới (thơ tự do). Tiểu thuyết Tự LựcVăn Đoàn mặc dù mang tính chất lãng mạn nhưng luôn luôn chất chứa tinh thần đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, đòi tự do, bình đẳng cho con người. Đây là một loại tiểu thuyết luận đề, lấy một câu chuyện hư cấu để thể hiện nhân sinh quan của tác giả.
# Kết luận
Năm 1625 là năm Alexandre de Rhodes đặt chân lần đầu tiên lên Hội An ở Đà Nẵng. Hơn 300 năm sau, không ai ngờ rằng người Việt lại có một chữ viết hoàn chỉnh, đó là chữ Quốc ngữ. Một thứ chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ viết và nhờ tính chất này chữ Quốc ngữ đã đóng góp rất lớn lao vào việc mở mang dân trí, giảm thiểu nạn mù chữ. Chỉ cần một thời gian ngắn vài tháng là có thể đọc và viết được chữ Quốc ngữ, trong khi đó chữ Hán phải cần một thời gian lâu hơn, trung bình khoảng 2 hay 3 năm để nhớ được mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường dùng .
Trí thức Việt Nam ở cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã nhìn thấy cái nhu cầu cấp bách của một dân tộc đang cần có một chữ viết xứng đáng. Sau 1.000 năm Bắc thuộc, dưới chính sách Hán hóa, người Việt bị mất chữ Khoa đẩu của mình, họ phải viết một thứ chữ là chữ của người Hán. Không muốn bị đồng hóa như các dân tộc khác, ngưòi Việt đi tìm một thứ chữ để ghi lại tiếng nói của mình. Mấy thế kỷ liền, họ mày mò tìm ra chữ Nôm. Tuy thế chữ Nôm chắc chắn không phải là giải pháp hoàn hảo nhất vì chữ Nôm vẫn dựa trên cơ sở chữ Hán, nên muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán. Trải qua bao nhiêu triều đại vua chúa, chữ Nôm cũng không được sử dụng trong chốn triều đình. Duy chỉ có hai đời vua duy nhất là Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ định lấy chữ Nôm thay cho chữ Hán trong các văn kiện hành chính, nhưng tiếc thay việc ấy không thành. Chữ Nôm khó học, nên chỉ dành cho giới khoa bảng và phần đông người dân bình thường thì không biết đọc và không biết viết. Trong buổi giao thời gìữa văn hóa Đông Tây vào cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ đã đến kịp thời. Các trí thức Việt Nam như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,… đã nhanh tay nắm lấy cơ hội đó, mặc dầu lúc ban đầu phải dựa vào người Pháp để được viết văn, ra báo. Những tác phẩm biên khảo, bình luận, phóng sự, du ký, tiểu thuyết, thơ phú của Gia Định Báo, Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn,… đã chứng minh được chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự cho người Việt.
Nhưng chữ Quốc ngữ không dừng ở chỗ văn tự cho một dân tộc, nó còn là cái gốc của dân tộc, như Trần Quý Cáp đã viết „Chữ quốc ngữ là hồn trong nước“. Nguời Việt thuộc về tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt gồm có các dân tộc như U Việt (ở Chiết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Lạc Việt (ở Việt Nam), Âu Việt (ở Quảng Đông, Quảng Tây), Chiêm Việt (đảo Hải Nam),… đã sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho đến Bắc Việt Nam. Sau 1.000 năm bị đô hộ, người Việt vẫn giữ được bản sắc của mình không để bị đồng hóa, trong khi đó các dân tộc khác thuộc nhóm Bách Việt đều bị Hán hóa hay bị tiêu diệt. Tại sao? Nhà văn Ngô Nhân Dụng trong cuốn „Đứng vững ngàn năm“, đã trả lời là nhờ có tiếng nói. Ông đưa một thí dụ, dân tộc Mãn Thanh một thời rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ 17 đã chiếm được Trung Quốc. Họ có tiếng nói và chữ viết riêng. Sau khi nhà Mãn Thanh sụp đổ, năm 1911 ở Mãn Châu có chục triệu người nói được tiếng Mãn, năm 2011 thì thế hệ những người biết nói tiếng Mãn chết dần, không còn được bao nhiêu. Nhà văn Ngô Nhân Dụng khẳng định „không giữ được tiếng nói thì mất nước“ .
Như vậy tiếng nói của một dân tộc quan trọng biết bao nhiêu. Muốn gìn giữ tiếng nói thì phải có chữ viết để lưu giữ lại tiếng nói. Nên địa vị của chữ viết cũng không kém phần quan trọng. Vào cuối thế kỷ 19, khi chữ Quốc ngữ xuất hiện và đẩy chữ Hán đi vào bóng tối, văn học Việt Nam bừng dậy và nở rộ vì thoát khỏi được cái nôi của văn hóa chữ Hán, trong đầu người Việt không còn bị gò bó vì Tứ Thư Ngũ Kinh, không còn bị chế ngự bởi các điển tích bên Trung Quốc xa lắc xa lơ. Người Việt đã trở về tình tự với cội nguồn thật sự của mình:
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi
(Tình ca tiếng nước tôi - Phạm Duy)
Mùa Xuân 2014
Lương Nguyên Hiền