https://markmanson.net/no-you-cant-make-a-person-change
Saigontex2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm.
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Saigontex 2013
Cùng với các nhà cung cấp phụ tùng sợi dệt tham gia triển lãm
Thứ Ba, 13 tháng 8, 2019
Người đàn ông sống vì điều gì trong cả cuộc đời này?
00:07
No comments
Người đàn ông sống vì điều gì trong cả cuộc đời này? – TnBS
“Một vài người từng thức dậy khi đã bước qua tuổi 45, mới bất giác nhận ra rằng họ chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình và tự trách móc mình đã làm được gì với những năm tháng đã qua.”
Cuộc sống của mỗi người đàn ông tuy mỗi người một khác, nhưng đều trải qua những giai đoạn tương đối giống nhau. Có người đã trưởng thành, có người đang mắc kẹt giữa đời. Thứ gì đã định hình bạn? Đã bao giờ suy ngẫm về việc muốn sống cuộc đời của mình thế nào chưa?
Giai đoạn 1: Yếu ớt và bắt chước
Từ khi sinh ra, chúng ta đã cần phụ thuộc vào người khác. Chúng ta chưa thể đi, chưa thể thể nói, không thể tự kiếm ăn và cũng chưa có mã số thuế. Khi còn nhỏ, cách học tập bẩm sinh của chúng là quan sát và bắt chước người khác. Đầu tiên chúng ta học các kĩ năng cơ bản như bước đi và nói chuyện. Sau đó, chúng ta phát triển các kĩ năng xã hội bằng cách nhìn và làm theo những người xung quanh. Cuối cùng, trong những năm tháng cuối cùng của thời thơ ấu, chúng ta học cách thích nghi với văn hóa xã hội bằng cách quan sát các luật lệ và phong tục xung quanh môi trường sống của mình và cố gắng cư xử theo cách thường được xã hội chấp nhận.
Mục tiêu của giai đoạn này là dạy chúng ta cách tồn tại trong xã hội, để ta có thể tự chủ và tự chăm sóc được bản thân mình. Những người trưởng thành khác trong gia đình, cộng đồng sẽ dìu dắt bạn đạt tới giai đoạn này thông qua sự trợ giúp để ta có thể tự ra quyết định và thực hiện chúng về sau.
Tuy nhiên, sẽ luôn có một số người lớn không thể chấp nhận điều này. Họ trừng phạt chúng ta vì ta được độc lập. Họ không ủng hộ các quyết định của ta. Và vì vậy chúng ta không phát triển được sự tự chủ. Chúng ta bị kẹt trong giai đoạn 1, mãi mãi bắt chước những người xung quanh mình, mãi mãi cố gắng làm hài lòng tất cả những người khác để chúng ta không bị phán xét là kẻ lập dị.
Bên trong một cá nhân lành mạnh “bình thường”, Giai đoạn 1 sẽ kéo dài đến cuối tuổi vị thành niên và giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Đối với một số người, nó có thể kéo dài đến cả khi họ đã là người lớn. Một vài người từng thức dậy khi đã bước qua tuổi 45, mới bất giác nhận ra rằng họ chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình và tự trách móc mình đã làm được gì với những năm tháng đã qua.
Đó là giai đoạn 1 – yếu ớt và bắt chước. Luôn luôn tìm kiếm sự cho phép và lòng tin. Thiếu vắng tư duy độc lập và các giá trị của bản thân. Chúng ta phải luôn phải ý thức được tiêu chuẩn và kì vọng của những người xung quanh đặt ra cho chúng ta.
Ta cũng phải đủ mạnh mẽ để hành động bất chấp những tiêu chuẩn và sự mong đợi của khác khi bản thân mình cảm thấy điều đó là cần thiết. Chúng ta cần phải phát triển khả năng, hành động có trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Giai đoạn 2: Khám phá bản thân
Trong giai đoạn 1, chúng ta học cách hòa nhập với con người xung quanh mình. Giai đoạn 2 sẽ là lúc học hỏi và phát hiện ra điều gì làm chúng ta khác biệt với đám đông. Điều này đòi hỏi bạn bắt đầu tự ra quyết định cho mình, tự thử thách mình, tự hiểu mình và khám phá ra điều gì khiến mình là một cá thể độc nhất.
Giai đoạn 2 bao gồm rất nhiều cuộc phép thử và sai lầm. Chúng ta thử nghiệm bằng cách sống ở những nơi mới lạ, giao lưu với những người mới, uống những đồ mới…
Có thể bạn sẽ xách ba lô đi trên dưới 20 nước, cậu bạn cùng lớp ở nhà học thêm bằng cấp, có người đâm đầu đi buôn vì mộng làm giàu…
Giai đoạn 2 là quá trình khám phá ra bản thân. Chúng ta thử nhiều thứ. Một số có thể thành công, 1 số có thể thất bại. Mục đích là để bạn chọn lựa chọn thứ đúng đắn và tiếp tục hành động.
Giai đoạn 2 kéo dài cho tới khi chúng ta bắt đầu chạm đến những giới hạn của mình. Điều này có thể làm nhiều người khó chịu. Nhưng bất kể mấy diễn giả thành công có nói gì với bạn, khám phá ra được những giới hạn của mình là một điều hoàn toàn tốt và lành mạnh. Bạn chắc chắc sẽ kém ở khoản nào đó, bất kể bạn có cố gắng đến đâu. Đương nhiên, ta cần biết chúng là gì.
Bạn cao 1m80 nhưng lại chẳng giỏi môn thể thao nào, bù lại bạn có thể nấu ăn như ‘Master Chef’.
Đó, mỗi chúng ta cần phải học được rằng mình giỏi và kém ở chỗ nào, điều này cần phải được nhận ra càng sớm càng tốt.
Vậy nên, chúng ta không giỏi ở một vài món. Và rồi bạn cũng sẽ học được rằng có những thứ thật tuyệt trong ngắn hạn, nhưng rồi sẽ chán dần sau một vài năm: Đi du lịch là một, tán tỉnh nhiều cô gái một lúc là hai, nhậu nhẹt thường xuyên là ba.
Biết được những giới hạn của bạn rất quan trọng bởi vì cuối cùng bạn phải nhận ra chân lý rằng thời gian của bạn trên trái đất này không có nhiều và vì vậy bạn nên đầu tư nó vào những thứ có ý nghĩa nhất. Điều này có nghĩa là nhận ra rằng cho dù bạn có khả năng làm được điều gì đó, không có nghĩa là bạn nên làm nó. Nhận ra rằng bởi vì bạn thích kiểu người này không có nghĩa là bạn nên ở mãi với họ. Nhận ra rằng mọi thứ đều có chi phí cơ hội và bạn không thể có tất cả.
Một vài người không bao giờ cho phép mình cảm thấy giới hạn – hoặc là bởi vì họ từ không dám thừa nhận những hạn chế của bản thân hoặc vì họ tự huyễn hoặc rằng mình không có giới hạn. Những người này sẽ bị kẹt lại trong Giai đoạn 2.
Có những người “cứ mãi khởi nghiệp” khi đã 38 tuổi, vẫn sống với mẹ và vẫn không kiếm ra được đồng nào sau 15 năm cố gắng. Có những “diễn viên đầy tham vọng” vẫn đang làm bồi bàn và đã không đi thử vai trong 2 năm. Có những người không thể yên vị vào một mối quan hệ lâu dài bởi vì họ luôn luôn có cảm giác rằng sẽ luôn có một ai đó tốt hơn xuất hiện. Họ là những người cố “lau chùi” những sai lầm như thể muốn “trừ khử” mọi lỗi lầm và điểm yếu khỏi “hồ sơ” cuộc đời.
Đến một lúc nào đó, chúng ta đều phải thừa nhận chân lý: cuộc đời này rất ngắn ngủi, mọi ước mơ của ta đều không thể thành hiện thực, vì vậy chúng ta nên cẩn thận lựa và chọn thứ gì chúng ta làm tốt nhất, toàn tâm toàn ý với nó.
Nhưng những người mắc kẹt trong giai đoạn 2 dành phần lớn thời gian để tự thuyết phục mình điều ngược lại. Rằng họ là “siêu nhân”, họ có thể vượt qua tất cả, rằng cuộc đời họ là sự phát triển và đi lên không bao giờ ngừng, trong khi ai cũng thể nhìn thấy rõ ràng họ chỉ đang chạy tại chỗ.
Với những cá nhân lành mạnh, Giai đoạn 2 bắt đầu từ giữa – cuối tuổi vị thành niên và kéo dài cho đến giữa 20 hoặc giữa 30. Những ai vẫn mãi kẹt trong giai đoạn 2 thường được mọi người gọi là mắc “Hội chứng Peter Pan” – những kẻ lông bông cả đời, luôn luôn đi tìm bản thân mình, nhưng không tìm thấy thứ gì.
Giai đoạn 3: Cam kết
Một khi bạn đã đẩy bản thân đến những giới hạn, biết được những gì mình kém (thể thao, nghệ thuật hoặc nấu ăn) hoặc là hiểu rằng cuộc vui nào cũng đến lúc tàn (ví dụ: nhậu nhẹt, chơi điện thử, thủ dâm…) thì bạn sẽ còn lại những thứ:
a) Thực sự quan trọng với bạn,
b) Bạn không đến nỗi quá tồi.
Giai đoạn 3 là thời điểm đẹp nhất cho bạn xây dựng “lâu đài” vững chãi cho cuộc đời mình. Bạn biết rời xa những người không phù hợp với mình, tạm biệt những trò chơi vô bổ, lãng phí thời gian, đã giã từ những giấc mơ huyễn hoặc bạn chẳng bao giờ thực hiện được.
Vậy nên, bạn cần tập trung hết sức vào thứ bạn giỏi nhất và tốt nhất cho bạn. Tập trung vào những mối quan hệ quan trọng nhất trong đời. Chung quy, ở giai đoạn này người đàn ông cũng không còn quá trẻ trung nữa, không được phép ngã qua đau nữa rồi.
Giai đoạn thứ 3 là lúc bạn tối đa hóa khả năng của mình mình. Nó là lúc xây dựng di sản của bạn. Bạn sẽ để lại gì cho cuộc đời khi bạn ra đi? Mọi người sẽ nhớ về bạn như nào? Dù đó là một nghiên cứu đột phá hoặc một phát kiến mới tuyệt vời hay một gia đình đáng yêu, Giai đoạn 3 là lúc bạn thay đổi thế giới này khác đi một chút nhờ sự tồn tại của bạn.
Giai đoạn 3 sẽ kết thúc khi có sự hợp nhất của 2 thứ:
a) Bạn cảm thấy như thế mình không còn gì có thể phấn đấu được nữa.
b) Bạn đã già và mệt mỏi, thấy rằng mình nên uống trà mạn và tỉa cây cảnh nốt quãng đời còn lại.
Đối với những người “bình thường”, Giai đoạn 3 thường kéo dài từ khoảng 30 tuổi tới tuổi nghỉ hưu.
Ở giai đoạn 3, sẽ không có chuyện mắc kẹt, mà chỉ có “biết đâu là đủ”. Chúng ta không thể trách móc nếu có những người đã 70, 80 tuổi nhưng vẫn theo đuổi đam mê đến cùng, đó là lựa chọn của họ.
Giai đoạn 4: Di sản cho thế hệ sau này
Khi đến giai đoạn này, người đàn ông đã dành khoảng 50 năm để đầu tư vào những thứ họ tin rằng là có ý nghĩa và quan trọng. Họ đã làm được những điều bản thân thấy rằng tuyệt vời, làm việc chăm chỉ, đạt được mọi thứ mình muốn. Họ đã đạt đến độ tuổi mà năng lượng và hoàn cảnh của họ không cho phép họ theo đuổi đam mê của mình thêm một bước nào nữa.
Tạo ra di sản (cả vật chất lẫn tinh thần) không hề dễ dàng, bảo tồn nó cho thế hệ sau này càng khó hơn.
Việc này có thể đơn giản là việc bạn hỗ trợ và răn dạy con cháu của mình và ngắm nhìn chúng tận hưởng cuộc sống.
Giai đoạn 4 rất quan trọng về mặt tâm lý bởi vì nó khiến chúng ta dễ chấp nhận sự thật rằng ta rồi sẽ phải chết. Bởi vì là con người, chúng ta có một nhu cầu sâu thẳm muốn cảm thấy rằng cuộc đời của mình có một ý nghĩa gì đó. Bạn phải đối mặt với sự già nua và lãng quên, cuối cùng là ngưỡng mà ai cũng biết những không hề dễ chấp nhận: cái chết
Giai đoạn 1: Mỗi người sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào những hành động của người khác và cần được chấp thuận để có thể hạnh phúc. Đây là một chiến lược sống kinh khủng bởi vì con người thật khó đoán và bất định.
Giai đoạn 2: Trở nên tự lực hơn, nhưng vẫn dựa vào thành công ngoại lai để có thể hạnh phúc – tiền bạc, sự tán dương, chiến thắng…Chúng có thể dễ kiểm soát con người tốt hơn, nhưng về lâu dài chúng vẫn rất khó dự đoán.
Giai đoạn 3: Phụ thuộc vào một số ít các mối quan hệ và những đam mê mà đã tự chứng tỏ chúng đáng để theo đuổi từ Giai đoạn 2. Con người bạn đã cứng rắn hơn nhiều qua vô số thử thách.
Cuối cùng, giai đoạn 4: đòi hỏi chúng ta chỉ bám giữ vào những gì mình đã hoàn thành được và nên ngừng kì vọng quá nhiều.
Trong mỗi giai đoạn, hạnh phúc trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào các giá trị bên trong tâm hồn, có thể kiểm soát và bớt dựa vào các yếu tố bên ngoài của thế giới biến đổi liên tục này.
Bạn có đang mắc kẹt ở giai đoạn nào không?
Life is a bitch. Then you die. So while staring at my navel the other day, I decided that that bitch happens in four stages. Here they are.
“Một vài người từng thức dậy khi đã bước qua tuổi 45, mới bất giác nhận ra rằng họ chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình và tự trách móc mình đã làm được gì với những năm tháng đã qua.”
Cuộc sống của mỗi người đàn ông tuy mỗi người một khác, nhưng đều trải qua những giai đoạn tương đối giống nhau. Có người đã trưởng thành, có người đang mắc kẹt giữa đời. Thứ gì đã định hình bạn? Đã bao giờ suy ngẫm về việc muốn sống cuộc đời của mình thế nào chưa?
Giai đoạn 1: Yếu ớt và bắt chước
Từ khi sinh ra, chúng ta đã cần phụ thuộc vào người khác. Chúng ta chưa thể đi, chưa thể thể nói, không thể tự kiếm ăn và cũng chưa có mã số thuế. Khi còn nhỏ, cách học tập bẩm sinh của chúng là quan sát và bắt chước người khác. Đầu tiên chúng ta học các kĩ năng cơ bản như bước đi và nói chuyện. Sau đó, chúng ta phát triển các kĩ năng xã hội bằng cách nhìn và làm theo những người xung quanh. Cuối cùng, trong những năm tháng cuối cùng của thời thơ ấu, chúng ta học cách thích nghi với văn hóa xã hội bằng cách quan sát các luật lệ và phong tục xung quanh môi trường sống của mình và cố gắng cư xử theo cách thường được xã hội chấp nhận.
Mục tiêu của giai đoạn này là dạy chúng ta cách tồn tại trong xã hội, để ta có thể tự chủ và tự chăm sóc được bản thân mình. Những người trưởng thành khác trong gia đình, cộng đồng sẽ dìu dắt bạn đạt tới giai đoạn này thông qua sự trợ giúp để ta có thể tự ra quyết định và thực hiện chúng về sau.
Tuy nhiên, sẽ luôn có một số người lớn không thể chấp nhận điều này. Họ trừng phạt chúng ta vì ta được độc lập. Họ không ủng hộ các quyết định của ta. Và vì vậy chúng ta không phát triển được sự tự chủ. Chúng ta bị kẹt trong giai đoạn 1, mãi mãi bắt chước những người xung quanh mình, mãi mãi cố gắng làm hài lòng tất cả những người khác để chúng ta không bị phán xét là kẻ lập dị.
Bên trong một cá nhân lành mạnh “bình thường”, Giai đoạn 1 sẽ kéo dài đến cuối tuổi vị thành niên và giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Đối với một số người, nó có thể kéo dài đến cả khi họ đã là người lớn. Một vài người từng thức dậy khi đã bước qua tuổi 45, mới bất giác nhận ra rằng họ chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình và tự trách móc mình đã làm được gì với những năm tháng đã qua.
Đó là giai đoạn 1 – yếu ớt và bắt chước. Luôn luôn tìm kiếm sự cho phép và lòng tin. Thiếu vắng tư duy độc lập và các giá trị của bản thân. Chúng ta phải luôn phải ý thức được tiêu chuẩn và kì vọng của những người xung quanh đặt ra cho chúng ta.
Ta cũng phải đủ mạnh mẽ để hành động bất chấp những tiêu chuẩn và sự mong đợi của khác khi bản thân mình cảm thấy điều đó là cần thiết. Chúng ta cần phải phát triển khả năng, hành động có trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Giai đoạn 2: Khám phá bản thân
Trong giai đoạn 1, chúng ta học cách hòa nhập với con người xung quanh mình. Giai đoạn 2 sẽ là lúc học hỏi và phát hiện ra điều gì làm chúng ta khác biệt với đám đông. Điều này đòi hỏi bạn bắt đầu tự ra quyết định cho mình, tự thử thách mình, tự hiểu mình và khám phá ra điều gì khiến mình là một cá thể độc nhất.
Giai đoạn 2 bao gồm rất nhiều cuộc phép thử và sai lầm. Chúng ta thử nghiệm bằng cách sống ở những nơi mới lạ, giao lưu với những người mới, uống những đồ mới…
Có thể bạn sẽ xách ba lô đi trên dưới 20 nước, cậu bạn cùng lớp ở nhà học thêm bằng cấp, có người đâm đầu đi buôn vì mộng làm giàu…
Giai đoạn 2 là quá trình khám phá ra bản thân. Chúng ta thử nhiều thứ. Một số có thể thành công, 1 số có thể thất bại. Mục đích là để bạn chọn lựa chọn thứ đúng đắn và tiếp tục hành động.
Giai đoạn 2 kéo dài cho tới khi chúng ta bắt đầu chạm đến những giới hạn của mình. Điều này có thể làm nhiều người khó chịu. Nhưng bất kể mấy diễn giả thành công có nói gì với bạn, khám phá ra được những giới hạn của mình là một điều hoàn toàn tốt và lành mạnh. Bạn chắc chắc sẽ kém ở khoản nào đó, bất kể bạn có cố gắng đến đâu. Đương nhiên, ta cần biết chúng là gì.
Bạn cao 1m80 nhưng lại chẳng giỏi môn thể thao nào, bù lại bạn có thể nấu ăn như ‘Master Chef’.
Đó, mỗi chúng ta cần phải học được rằng mình giỏi và kém ở chỗ nào, điều này cần phải được nhận ra càng sớm càng tốt.
Vậy nên, chúng ta không giỏi ở một vài món. Và rồi bạn cũng sẽ học được rằng có những thứ thật tuyệt trong ngắn hạn, nhưng rồi sẽ chán dần sau một vài năm: Đi du lịch là một, tán tỉnh nhiều cô gái một lúc là hai, nhậu nhẹt thường xuyên là ba.
Biết được những giới hạn của bạn rất quan trọng bởi vì cuối cùng bạn phải nhận ra chân lý rằng thời gian của bạn trên trái đất này không có nhiều và vì vậy bạn nên đầu tư nó vào những thứ có ý nghĩa nhất. Điều này có nghĩa là nhận ra rằng cho dù bạn có khả năng làm được điều gì đó, không có nghĩa là bạn nên làm nó. Nhận ra rằng bởi vì bạn thích kiểu người này không có nghĩa là bạn nên ở mãi với họ. Nhận ra rằng mọi thứ đều có chi phí cơ hội và bạn không thể có tất cả.
Một vài người không bao giờ cho phép mình cảm thấy giới hạn – hoặc là bởi vì họ từ không dám thừa nhận những hạn chế của bản thân hoặc vì họ tự huyễn hoặc rằng mình không có giới hạn. Những người này sẽ bị kẹt lại trong Giai đoạn 2.
Có những người “cứ mãi khởi nghiệp” khi đã 38 tuổi, vẫn sống với mẹ và vẫn không kiếm ra được đồng nào sau 15 năm cố gắng. Có những “diễn viên đầy tham vọng” vẫn đang làm bồi bàn và đã không đi thử vai trong 2 năm. Có những người không thể yên vị vào một mối quan hệ lâu dài bởi vì họ luôn luôn có cảm giác rằng sẽ luôn có một ai đó tốt hơn xuất hiện. Họ là những người cố “lau chùi” những sai lầm như thể muốn “trừ khử” mọi lỗi lầm và điểm yếu khỏi “hồ sơ” cuộc đời.
Đến một lúc nào đó, chúng ta đều phải thừa nhận chân lý: cuộc đời này rất ngắn ngủi, mọi ước mơ của ta đều không thể thành hiện thực, vì vậy chúng ta nên cẩn thận lựa và chọn thứ gì chúng ta làm tốt nhất, toàn tâm toàn ý với nó.
Nhưng những người mắc kẹt trong giai đoạn 2 dành phần lớn thời gian để tự thuyết phục mình điều ngược lại. Rằng họ là “siêu nhân”, họ có thể vượt qua tất cả, rằng cuộc đời họ là sự phát triển và đi lên không bao giờ ngừng, trong khi ai cũng thể nhìn thấy rõ ràng họ chỉ đang chạy tại chỗ.
Với những cá nhân lành mạnh, Giai đoạn 2 bắt đầu từ giữa – cuối tuổi vị thành niên và kéo dài cho đến giữa 20 hoặc giữa 30. Những ai vẫn mãi kẹt trong giai đoạn 2 thường được mọi người gọi là mắc “Hội chứng Peter Pan” – những kẻ lông bông cả đời, luôn luôn đi tìm bản thân mình, nhưng không tìm thấy thứ gì.
Giai đoạn 3: Cam kết
Một khi bạn đã đẩy bản thân đến những giới hạn, biết được những gì mình kém (thể thao, nghệ thuật hoặc nấu ăn) hoặc là hiểu rằng cuộc vui nào cũng đến lúc tàn (ví dụ: nhậu nhẹt, chơi điện thử, thủ dâm…) thì bạn sẽ còn lại những thứ:
a) Thực sự quan trọng với bạn,
b) Bạn không đến nỗi quá tồi.
Giai đoạn 3 là thời điểm đẹp nhất cho bạn xây dựng “lâu đài” vững chãi cho cuộc đời mình. Bạn biết rời xa những người không phù hợp với mình, tạm biệt những trò chơi vô bổ, lãng phí thời gian, đã giã từ những giấc mơ huyễn hoặc bạn chẳng bao giờ thực hiện được.
Vậy nên, bạn cần tập trung hết sức vào thứ bạn giỏi nhất và tốt nhất cho bạn. Tập trung vào những mối quan hệ quan trọng nhất trong đời. Chung quy, ở giai đoạn này người đàn ông cũng không còn quá trẻ trung nữa, không được phép ngã qua đau nữa rồi.
Giai đoạn thứ 3 là lúc bạn tối đa hóa khả năng của mình mình. Nó là lúc xây dựng di sản của bạn. Bạn sẽ để lại gì cho cuộc đời khi bạn ra đi? Mọi người sẽ nhớ về bạn như nào? Dù đó là một nghiên cứu đột phá hoặc một phát kiến mới tuyệt vời hay một gia đình đáng yêu, Giai đoạn 3 là lúc bạn thay đổi thế giới này khác đi một chút nhờ sự tồn tại của bạn.
Giai đoạn 3 sẽ kết thúc khi có sự hợp nhất của 2 thứ:
a) Bạn cảm thấy như thế mình không còn gì có thể phấn đấu được nữa.
b) Bạn đã già và mệt mỏi, thấy rằng mình nên uống trà mạn và tỉa cây cảnh nốt quãng đời còn lại.
Đối với những người “bình thường”, Giai đoạn 3 thường kéo dài từ khoảng 30 tuổi tới tuổi nghỉ hưu.
Ở giai đoạn 3, sẽ không có chuyện mắc kẹt, mà chỉ có “biết đâu là đủ”. Chúng ta không thể trách móc nếu có những người đã 70, 80 tuổi nhưng vẫn theo đuổi đam mê đến cùng, đó là lựa chọn của họ.
Giai đoạn 4: Di sản cho thế hệ sau này
Khi đến giai đoạn này, người đàn ông đã dành khoảng 50 năm để đầu tư vào những thứ họ tin rằng là có ý nghĩa và quan trọng. Họ đã làm được những điều bản thân thấy rằng tuyệt vời, làm việc chăm chỉ, đạt được mọi thứ mình muốn. Họ đã đạt đến độ tuổi mà năng lượng và hoàn cảnh của họ không cho phép họ theo đuổi đam mê của mình thêm một bước nào nữa.
Tạo ra di sản (cả vật chất lẫn tinh thần) không hề dễ dàng, bảo tồn nó cho thế hệ sau này càng khó hơn.
Việc này có thể đơn giản là việc bạn hỗ trợ và răn dạy con cháu của mình và ngắm nhìn chúng tận hưởng cuộc sống.
Giai đoạn 4 rất quan trọng về mặt tâm lý bởi vì nó khiến chúng ta dễ chấp nhận sự thật rằng ta rồi sẽ phải chết. Bởi vì là con người, chúng ta có một nhu cầu sâu thẳm muốn cảm thấy rằng cuộc đời của mình có một ý nghĩa gì đó. Bạn phải đối mặt với sự già nua và lãng quên, cuối cùng là ngưỡng mà ai cũng biết những không hề dễ chấp nhận: cái chết
Giai đoạn 1: Mỗi người sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào những hành động của người khác và cần được chấp thuận để có thể hạnh phúc. Đây là một chiến lược sống kinh khủng bởi vì con người thật khó đoán và bất định.
Giai đoạn 2: Trở nên tự lực hơn, nhưng vẫn dựa vào thành công ngoại lai để có thể hạnh phúc – tiền bạc, sự tán dương, chiến thắng…Chúng có thể dễ kiểm soát con người tốt hơn, nhưng về lâu dài chúng vẫn rất khó dự đoán.
Giai đoạn 3: Phụ thuộc vào một số ít các mối quan hệ và những đam mê mà đã tự chứng tỏ chúng đáng để theo đuổi từ Giai đoạn 2. Con người bạn đã cứng rắn hơn nhiều qua vô số thử thách.
Cuối cùng, giai đoạn 4: đòi hỏi chúng ta chỉ bám giữ vào những gì mình đã hoàn thành được và nên ngừng kì vọng quá nhiều.
Trong mỗi giai đoạn, hạnh phúc trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào các giá trị bên trong tâm hồn, có thể kiểm soát và bớt dựa vào các yếu tố bên ngoài của thế giới biến đổi liên tục này.
Bạn có đang mắc kẹt ở giai đoạn nào không?
Life is a bitch. Then you die. So while staring at my navel the other day, I decided that that bitch happens in four stages. Here they are.
Stage One: Mimicry
We are born helpless. We can’t walk, can’t talk, can’t feed ourselves, can’t even do our own damn taxes.
As children, the way we’re wired to learn
is by watching and mimicking others. First we learn to do physical
skills like walk and talk. Then we develop social skills by watching and
mimicking our peers around us. Then, finally, in late childhood, we
learn to adapt to our culture by observing the rules and norms around us
and trying to behave in such a way that is generally considered
acceptable by society.
The goal of Stage One is to teach us how
to function within society so that we can be autonomous, self-sufficient
adults. The idea is that the adults in the community around us help us
to reach this point through supporting our ability to make decisions and take action ourselves.
But some adults and community members around us suck.1
They punish us for our independence. They don’t support our decisions.
And therefore we don’t develop autonomy. We get stuck in Stage One,
endlessly mimicking those around us, endlessly attempting to please all
so that we might not be judged.2
In a “normal” healthy individual, Stage One will last until late adolescence and early adulthood.3
For some people, it may last further into adulthood. A select few wake
up one day at age 45 realizing they’ve never actually lived for
themselves and wonder where the hell the years went.
This is Stage One. The mimicry. The constant search for approval and validation. The absence of independent thought and personal values.
We must be aware of the standards and expectations of those around us. But we must also become strong enough to act in spite
of those standards and expectations when we feel it is necessary. We
must develop the ability to act by ourselves and for ourselves.
Stage Two: Self-Discovery
In Stage One, we learn to fit in with the people and culture around us. Stage Two is about learning what makes us different
from the people and culture around us. Stage Two requires us to begin
making decisions for ourselves, to test ourselves, and to understand
ourselves and what makes us unique.
Stage Two involves a lot of trial-and-error and experimentation. We experiment with living in new places, hanging out with new people, imbibing new substances, and playing with new people’s orifices.
In my Stage Two, I ran off and visited fifty-something countries.
My brother’s Stage Two was diving headfirst into the political system
in Washington DC. Everyone’s Stage Two is slightly different because
every one of us is slightly different.
Stage Two is a process of self-discovery. We try things. Some of them go well. Some of them don’t. The goal is to stick with the ones that go well and move on.
Stage Two lasts until we begin to run up
against our own limitations. This doesn’t sit well with many people. But
despite what Oprah and Deepak Chopra may tell you, discovering your own limitations is a good and healthy thing.
You’re just going to be bad at some things,
no matter how hard you try. And you need to know what they are. I am
not genetically inclined to ever excel at anything athletic whatsoever.
It sucked for me to learn that, but I did. I’m also about as capable of
feeding myself as an infant drooling applesauce all over the floor. That
was important to find out as well. We all must learn what we suck at.
And the earlier in our life that we learn it, the better.
So we’re just bad at some things. Then
there are other things that are great for a while, but begin to have
diminishing returns after a few years. Traveling the world is one example. Sexing a ton of people is another. Drinking on a Tuesday night is a third. There are many more. Trust me.
Your limitations are important because you
must eventually come to the realization that your time on this planet
is limited and, therefore, you should spend it on things that matter most. That means realizing that just because you can do something, doesn’t mean you should do it. That means realizing that just because you like certain people doesn’t mean you should be with them. That means realizing that there are opportunity costs to everything and that you can’t have it all.
There are some people who never allow
themselves to feel limitations — either because they refuse to admit
their failures, or because they delude themselves into believing that
their limitations don’t exist. These people get stuck in Stage Two.
These are the “serial entrepreneurs”
who are 38 and living with mom and still haven’t made any money after
15 years of trying. These are the “aspiring actors” who are still
waiting tables and haven’t done an audition in two years. These are the
people who can’t settle into a long-term relationship
because they always have a gnawing feeling that there’s someone better
around the corner. These are the people who brush all of their failings
aside as “releasing” negativity into the universe or “purging” their baggage from their lives.
At some point we all must admit the inevitable: life is short, not all of our dreams can come true, so we should carefully pick and choose what we have the best shot at and commit to it.
But people stuck in Stage Two spend most
of their time convincing themselves of the opposite. That they are
limitless. That they can overcome all. That their life is that of non-stop growth and ascendance in the world, while everyone else can clearly see that they are merely running in place.
In healthy individuals, Stage Two begins in mid- to late-adolescence and lasts into a person’s mid-20s to mid-30s.4 People who stay in Stage Two beyond that are popularly referred to as those with “Peter Pan Syndrome” — the eternal adolescents, always discovering themselves but finding nothing.
Stage Three: Commitment
Once you’ve pushed your own boundaries and
either found your limitations (i.e., athletics, the culinary arts) or
found the diminishing returns of certain activities (i.e., partying,
video games, masturbation) then you are left with what’s both a) actually important to you, and b) what you’re not terrible at. Now it’s time to make your dent in the world.
Stage Three is the great consolidation of one’s life. Out go the friends who are draining you and holding you back. Out go the activities and hobbies that are a mindless waste of time. Out go the old dreams that are clearly not coming true anytime soon.
Then you double down on what you’re best
at and what is best to you. You double down on the most important
relationships in your life. You double down on a single mission in life,
whether that’s to work on the world’s energy crisis or to be a bitching
digital artist or to become an expert in brains or have a bunch of
snotty, drooling children. Whatever it is, Stage Three is when you get
it done.
Stage Three is all about maximizing your
own potential in this life. It’s all about building your legacy. What
will you leave behind when you’re gone? What will people remember you
by? Whether that’s a breakthrough study or an amazing new product or an
adoring family, Stage Three is about leaving the world a little bit
different than the way you found it.
Stage Three ends when a combination of two
things happen: 1) you feel as though there’s not much else you are able
to accomplish, and 2) you get old and tired and find that you would
rather sip martinis and do crossword puzzles all day.
In “normal” individuals, Stage Three generally lasts from around 30-ish-years-old until one reaches retirement age.
People who get lodged in Stage Three often do so because they don’t know how to let go of their ambition and constant desire for more.
This inability to let go of the power and influence they crave
counteracts the natural calming effects of time and they will often
remain driven and hungry well into their 70s and 80s.5
Stage Four: Legacy
People arrive into Stage Four having spent somewhere around half a century investing themselves in what they believed was meaningful and important.
They did great things, worked hard, earned everything they have, maybe
started a family or a charity or a political or cultural revolution or
two, and now they’re done. They’ve reached the age where their energy
and circumstances no longer allow them to pursue their purpose any further.
The goal of Stage Four then becomes not to create a legacy as much as simply making sure that legacy lasts beyond one’s death.
This could be something as simple as
supporting and advising their (now grown) children and living
vicariously through them. It could mean passing on their projects and
work to a protégé or apprentice. It could also mean becoming more
politically active to maintain their values in a society that they no
longer recognize.
Stage Four is important psychologically
because it makes the ever-growing reality of one’s own mortality more
bearable. As humans, we have a deep need to feel as though our lives
mean something. This meaning we constantly search for
is literally our only psychological defense against the
incomprehensibility of this life and the inevitability of our own death.6
To lose that meaning, or to watch it slip away, or to slowly feel as
though the world has left you behind, is to stare oblivion in the face
and let it consume you willingly.
What’s the Point?
Developing through each subsequent stage of life grants us greater control over our happiness and well-being.7
In Stage One, a person is wholly dependent
on other people’s actions and approval to be happy. This is a horrible
strategy because other people are unpredictable and unreliable.
In Stage Two, one becomes reliant on oneself, but they’re still reliant on external success to be happy
— making money, accolades, victory, conquests, etc. These are more
controllable than other people, but they are still mostly unpredictable
in the long-run.
Stage Three relies on a handful of
relationships and endeavors that proved themselves resilient and
worthwhile through Stage Two. These are more reliable. And finally,
Stage Four requires we only hold on to what we’ve already accomplished
as long as possible.
At each subsequent stage, happiness
becomes based more on internal, controllable values and less on the
externalities of the ever-changing outside world.
Inter-Stage Conflict
Later stages don’t replace previous
stages. They transcend them. Stage Two people still care about social
approval. They just care about something more than social
approval. Stage 3 people still care about testing their limits. They
just care more about the commitments they’ve made.
Each stage represents a reshuffling of one’s life priorities. It’s for this reason that when one transitions from one stage to another, one will often experience a fallout in one’s friendships and relationships.
If you were Stage Two and all of your friends were Stage Two, and
suddenly you settle down, commit and get to work on Stage Three, yet
your friends are still Stage Two, there will be a fundamental disconnect
between your values and theirs that will be difficult to overcome.
Generally speaking, people project their
own stage onto everyone else around them. People at Stage One will judge
others by their ability to achieve social approval. People at Stage Two
will judge others by their ability to push their own boundaries and try
new things. People at Stage Three will judge others based on their
commitments and what they’re able to achieve. People at Stage Four judge
others based on what they stand for and what they’ve chosen to live
for.
The Value of Trauma
Self-development is often portrayed as a
rosy, flowery progression from dumbass to enlightenment that involves a
lot of joy, prancing in fields of daisies, and high-fiving two thousand
people at a seminar you paid way too much to be at.
But the truth is that transitions between the life stages are usually triggered by trauma or an extreme negative event in one’s life. A near-death experience. A divorce. A failed friendship or a death of a loved one.
Trauma causes us to step back and
re-evaluate our deepest motivations and decisions. It allows us to
reflect on whether our strategies to pursue happiness are actually working well or not.
What Gets Us Stuck
The same thing gets us stuck at every stage: a sense of personal inadequacy.
People get stuck at Stage One because they
always feel as though they are somehow flawed and different from
others, so they put all of their effort into conforming into what those
around them would like to see. No matter how much they do, they feel as
though it is never enough.
Stage Two people get stuck because they feel as though they should always be doing more, doing something better, doing something new and exciting, improving at something. But no matter how much they do, they feel as though it is never enough.
Stage Three people get stuck because they
feel as though they have not generated enough meaningful influence in
the world, that they make a greater impact in the specific areas that
they have committed themselves to. But no matter how much they do, they
feel as though it is never enough.8
One could even argue that Stage Four
people feel stuck because they feel insecure that their legacy will not
last or make any significant impact on the future generations. They
cling to it and hold onto it and promote it with every last gasping
breath. But they never feel as though it is enough.
The solution at each stage is then
backwards. To move beyond Stage One, you must accept that you will never
be enough for everybody all the time, and therefore you must make
decisions for yourself.
To move beyond Stage Two, you must accept
that you will never be capable of accomplishing everything you can dream
and desire, and therefore you must zero in on what matters most and
commit to it.
To move beyond Stage Three, you must
realize that time and energy are limited, and therefore you must refocus
your attention to helping others take over the meaningful projects you
began.
To move beyond Stage Four, you must
realize that change is inevitable, and that the influence of one person,
no matter how great, no matter how powerful, no matter how meaningful,
will eventually dissipate too.
And life will go on.
How to Know Who You Really Are
We all think we know ourselves
well, but psychological studies show otherwise. In fact, most of us are
somewhat deluded about ourselves. I put together a 22-page ebook
explaining how we can come to know ourselves better, just fill out your
email in the form.
(Sưu tầm)
Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018
6 người đi khắp thế gian: Cuốn tiểu thuyết giang hồ thượng hạng
20:15
1 comment
Copy từ https://reviewsach.net
Bạo lực, nạn phân biệt chủng tộc, quan điểm tình dục & hành trình phiêu lưu của những bạn trẻ qua những miền đất hùng vĩ là câu chuyện xuyên suốt trong cuốn sách Sáu người đi khắp thế gian này.
Nếu có bạn trẻ nào từng ước mơ chinh phục cả thế giới, thì sẽ vô cùng hào hứng khi đọc tập 1 của cuốn 6 người đi khắp thế gian
này. Những khi chứng kiến Joe, Brittal hay Monica vượt qua mọi thứ, vứt
bỏ tất cả “bỏ nhà ra đi” để chinh phục thế giới, chắc hẳn trái tim
người đọc nó cũng sẽ rực cháy theo. Xách ba lô lên và đi thôi nào, các
bạn trẻ!
Nhưng rồi, khi đọc hết tập 2, những kẻ
mộng mơ nhất có lẽ cũng cần phải trầm ngâm suy nghĩ lại. Tất nhiên du
lịch vòng quanh thế giới là một cái sung sướng tột đỉnh của những tâm
hồn thích phiêu lưu, nhưng rồi khi giấc mơ chạm mặt đất, có lẽ ai cũng
run rợ mà không dám quả quyết với cái mong muốn thuở ban đầu.
Bởi cái chết, chiến tranh & bạo lực xảy ra tức thì, ngay cạnh hành trình của họ.
Vậy thì, an toàn trở về có lẽ là khao khát lớn nhất, chứ không phải là ước mơ chinh phục địa cầu nữa rồi.
Đánh trọng tâm vào ước mơ của những cái
tôi thích nổi loạn, không ngoa khi James Albert Michener được mệnh danh
là thiên tài thấu hiểu giới trẻ. Qua cuốn tiểu thuyết phiêu lưu giang hồ
thượng thặng này, chắc hẳn bạn đọc nào cũng phải gật gù thán phục &
công nhận chân lý đó.
Ngoài ra thì 2 cuốn sách này có thể được
xem là một bách khoa toàn thư về chiến tranh, chính trị, tôn giáo, tình
dục & những nền văn hóa khác nhau. Lượng kiến thức đồ sộ trong mỗi
chương sách không khỏi khiến độc giả và ngay cả những nhà nghiên cứu
cũng phải trầm trồ.
[Tập 1] Nguồn cơn của hành trình chạy trốn hiện thực của sáu con người trẻ tuổi
Tập 1 của cuốn sách giới thiệu 6 nhân
vật chính & hành trình từ quê hương bước tới với thành phố mặt trời,
Torremolinos ở Tây Ban Nha, một cái tên thật khó nhớ, nhưng là điểm
chung của họ, bốn người Mỹ, một cô tiểu thư nhà giàu ở Anh Quốc &
một cô gái Na Uy giàu nghị lực đầy khát khao vươn tới ánh sáng.
Cả 6 người với những lý do khác nhau và
vô tình gặp nhau tại một nơi để rồi cuối cùng bánh xe định mệnh chở họ
đi phiêu bạt giang hồ. Trước khi nói về hành trình đầy bất ngờ ấy, chúng
ta sẽ cùng điểm qua khởi nguồn của mọi chuyện qua lời kể của nhân vật
tôi – George Fairbanks, một ông già 61 tuổi vô tình quen biết với cả 6
người và cũng là người hướng dẫn các bạn trẻ trong suốt chặng đường
chinh phục thế gian của họ.
Joe – tuổi trẻ là chân thật
Không có người nào điên rồ tới mức
muốn chiến tranh hơn hoà bình: vì trong thời bình con trai chôn cất cha,
còn trong thời chiến thì cha chôn cất con trai. (Herodotus)
Có một anh chàng sinh viên tên là Joe vì
chán ghét chiến tranh & thông điệp chính trị cùng lời kêu gọi nhập
ngũ chỉ để đi đánh nhau, đã quyết định vứt bỏ thẻ quân dịch của mình.
Anh trở thành kẻ tị nạn chính trị khi mới 20 tuổi, rời đất nước để đến
một nơi xa lạ dưới sự giúp đỡ của những lực lượng không ủng hộ chính
phủ.
Ngày 1 tháng Giêng năm 1969, Joe bắt đầu
hành trình đi vào cảnh lưu đày. Anh không hề nghĩ đến việc gọi điện
thoại cho ông bố bà mẹ bất lực của mình: bởi anh hiểu là cha anh sẽ cằn
nhằn còn mẹ anh sẽ khóc lóc….
Hành trình đến với thành phố mặt trời của Joe đúc kết bằng 2 từ : điên rồ! Nhưng tuổi trẻ có ai lại không muốn được một lần như anh ta cơ chứ!
Một kẻ thà bỏ trốn khỏi quê nhà chứ
không nhất quyết “yêu đại một cô nàng nào đấy, tính kĩ chu kỳ rụng trứng
& làm cô ta có bầu” để tránh quân dịch, một sinh viên luôn ám ảnh
trong đầu là những băn khoăn với ý nghĩa “tội nghiệp người da đen phải
đi lính, người da trắng thì không; người nghèo bị lôi ra trận, người khờ
dại bị lùa đi lính & có thể bị bắn chết, người giàu & người
thông minh thì sống an nhàn! Và Joe quy mọi tội lỗi, chán chường cảnh
giả tạo là do một chính phủ đã thối nát và sai lầm từ gốc rễ. Anh không
sử dụng những thủ đoạn đê hèn để trốn quân dịch như bao người “khôn
ngoan” khác. Thậm chí ngay khi được hỏi lần cuối cùng, anh thà ra đi như
một tội phạm chứ không thèm nhận lỗi vì đã gửi thư trả lại thẻ quân
dịch. Và rõ ràng ra đi là một lựa chọn khôn ngoan, chí ít thì còn hơn là
vùi những năm tháng trẻ tuổi của anh ở trong tù!
Chính những suy nghĩ dẫn Joe đến hành
trình đi khắp thế gian sau này, là một minh chứng cho sự ngạo nghễ của
những con người trẻ tuổi. Quyết tâm của Joe đủ lớn, để hành trình đi đến
thành phố Torremolinos (một nơi mà người ta nói đủ mọi thứ tiếng trừ
Tây Ban Nha) của anh trở nên dễ thở hơn bao giờ hết, dù lúc ra đi trong
túi anh không có lấy một xu đáng tiền.
Britta – cô gái Na Uy và khát vọng nhìn thấy mặt trời
Britta được miêu tả là một cô gái đầy
nghị lực xuất phát từ đảo Tromso, cách vòng Bắc cực hai trăm dặm về phía
bắc. Lý do cô muốn rời xa quê hương rất đơn giản : cô khao khát được
nhìn thấy tia sáng ấm áp từ Mặt trời, trốn xa vùng đất Na Uy tù túng!
Khá nhiều người bị bệnh lãnh cảm sau khi
trải qua một trải nghiệm tình dục tồi tệ trong quá khứ, chẳng hạn như
bị cưỡng bức, bị bạo hành…Tuy nhiên với Britta, một nạn nhân của lão già
ghê tởm (bị hãm hiếp khi chỉ mới 15 tuổi), đã hoàn toàn vượt qua được
vấn đề này và có những trải nghiệm ngọt ngào với anh chàng bạn trai lúc
chỉ mới 18 tuổi.
Và đặc biệt hơn, dù anh chàng kia có khả
năng làm tình tuyệt vời đến mấy, cô vẫn quyết định rời bỏ anh ta để ra
đi đến với thành phố Mặt trời, với hành lý là một tấm vé đã bóc sạch số
tiền của cô dành dụm được trong suốt thời gian ở quê nhà
Tại sao cô gái trẻ lại dũng cảm từ bỏ quê hương để chạy đến một nơi xa lạ không người thân thích? Có 2 lý do.
Một là vì bố cô, một người hùng của quá
khứ khi chống phát xít ở chiến tranh thế giới, và một gã thất bại ở hiện
tại khi mà giấc mơ đi đến hòn đảo Cleylon của ông chỉ mãi mãi là ảo
vọng. Ông chỉ biết mơ ước vào ban đêm với những câu hò của Thợ mò ngọc
trai, trong khi ban ngày thì vất vả kiếm sống ở một công ty xuất nhập
khẩu, một nhân viên quèn với đồng lương chết đói.
Lý do thứ hai. Hằng năm cứ đến và ngày
hai mươi hai tháng Chín, trong chu trình lên xuống đã định trên khoảng
trời, ngay cả giữa trưa mặt trời cũng khuất dưới đường chân trời, nghĩa
là ngày thì ngắn và đêm thì dài vô tận. Người dân ở Tromso nói rằng
“chúng ta đã ở trong đường hầm”. Nghĩa là bóng tối gần như bao phủ toàn
bộ thời gian của khu vực, ngoại trừ một màn sương xám mỏng manh lúc 12h
trưa.
Với Britta thì đường hầm đó vô cùng khủng khiếp. Cô khao khát đi đến thành phố nào đó khác, để được thấy Mặt trời!
“Khi bạn mơ ước một thứ gì đó, cả vũ trụ sẽ chung tay giúp đỡ bạn” Câu nói của Nhà giả kim
rất thích hợp để minh họa về trường hợp này của Britta. Với những nỗ
lực phi thường của cô cộng thêm một may mắn không thể tin nổi, Britta đã
có tấm vé để đến Toremolinos, đối với người khác thì đó là một chuyến
du lịch 15 ngày đơn thuần, còn đối với cô, đó là một hành trình một đi
không trở lại, nơi cô mơ ước được sống một cuộc đời khác, một hành trình
rạng rỡ dưới ánh mặt trời.
“Con sẽ không bao giờ quay lại…không bao giờ. Mẹ nói với cha nhé.”
Monica – Cô tiểu thư người Anh và hành trình lang bạt không mục đích
Nếu như Joe rời tổ quốc chỉ để trốn
tránh cái hiện thực đáng chán là anh phải làm những việc vô đạo đức để
tránh quân dịch, hoặc là nhập ngũ để chiến đấu với một lý tưởng không
hòa bình. Anh rời quê một cách đầy anh dũng, từ bỏ thiên đường của nhiều
người để đến một nơi đầy bão tố mà anh chưa từng tưởng tượng.
Nếu như Britta bỏ nhà ra đi chỉ vi khao
khát một cuộc sống tốt đẹp hơn, để quên đi ngày tháng bình dị đến chán
ngán cùng những người tình chẳng đi đến đâu. Một nỗ lực, một ý chí của
một cô gái trẻ đáng ngưỡng mộ.
Thì Monica, tiểu thư Monica là đại diện
cho một hình ảnh vô cùng không đẹp của tuổi trẻ. Hiếu thắng, không màng
đến kết cục & sống bù khú vấp váp ngớ ngẩn với ma túy và tình dục.
Mặc dù lý do cô ra đi, chán ghét sự lãnh đạo của cha cô tại cộng hòa
Vwadra, một quốc gia châu Phi giả tưởng, và muốn tránh xa cái bóng quá
lớn của ông ấy, một phát ngôn viên, một chính trị gia, một nhà ngoại
giao Anh thất bại thảm hại.
Nhưng cô chạy trốn với không mục đích và
không biết đến ngày mai. Và rồi ma túy và tình dục cũng những cơn say
“hết mình” không giúp cô tốt đẹp hơn, mà ngược lại.
Tuổi trẻ và phá cách, đó là những gì
ngắn gọn và tốt đẹp nhất để nói về Monica. Đáng khen là những quyết định
táo báo của cô, và đáng trách cũng là những quyết định ấy.
Sẽ không bàn nhiều về cô gái này ở bài
review này nữa, tuy nhiên độc giả có thể tự nhìn lại mình khi đọc tới
những vấn đề mà cô gái mạnh mẽ này đã trải qua, chiêm nghiệm nó và tự ra
nhận xét cho riêng mình.
Anh chàng da đen Cato và nạn phân biệt chủng tộc
Bạn đọc quan tâm tới nạn phân biệt chủng
tộc có lẽ sẽ rất thích thú khi được nghe tác giả tỉ mỉ miêu tả về anh
chàng da đen Cato và hành trình đến với thành phố Mặt Trời.
“Về người Mỹ da đen, môt câu đơn giản tóm tắt lịch sử xác đáng của đất nước chúng ta: được thuê cuối cùng, bị đuổi đầu tiên”
“Suốt 364 ngày trong năm, người da đen
kiên nhẫn chịu đựng một nỗi thống khổ hẳn sẽ đẩy người da trắng vào thế
phải tự vẫn. Ngày thứ 365, anh ta trốn thoát bằng cách ở nhà uống say bí
tỉ, và rồi nhân viên xã hội báo cáo, “Anh ta không có khả năng làm
việc, như thường lệ”
Khắc họa sự bất công đối với người da
đen, tác giả miêu tả những vụ bạo loạn, sự kém hiểu biết của họ đồng
thời không quên nói về những kỳ thị, ác cảm của những người da trắng đối
với họ. Hơn thế, nạn phân biệt chủng tộc còn nặng nề hơn qua sự dối trá
và ngớ ngẩn đến từ báo chí và truyền thông!
Với những kẻ kém hiểu biết chỉ nhận
thông tin một chiều, họ sẽ cho rằng Cato là một kẻ khủng bố, theo đạo
Hồi và là một tay súng nguy hiểm. Còn đối với nhân vật tôi trong truyện,
Cato chỉ đơn giản là một anh chàng da đen dễ mến và thức thời. Nhưng dù
sao thì anh cũng là một kẻ chạy trốn vì một cuộc đấu tranh cho sự công
bằng của chủng tộc.
Yigal, một anh chàng Do Thái với trí tuệ phi thường và một trái tim nóng ấm
Đọc phần miêu tả về Yigal, người đọc
hoàn toàn có thể hình dung được nền tảng giáo dục của gia đình và môi
trường sống ảnh hưởng như thế nào tới tương lai con trẻ.
Yigal là một trường hợp đặc biệt như
thế. Anh mang cả hai quốc tịch Mỹ và Irasel, và khi tổ quốc Do Thái cần,
anh sẵn sàng vứt bỏ tương lai tốt đẹp ở Hoa Kỳ để sát cánh với những
người lính bên chiếc xe tăng, bất chấp sự phản đối của gia đình. Nhưng
sau chuyện đó, lại khiến anh đau đầu cho tương lai khi phân vân không
biết nên làm gì tiếp theo, trở về Mỹ làm một sinh viên ưu tú ở đại học
Michigan theo ý ông ngoại, hay sang Anh theo ý ông nội để trở thành nhà
khoa học chuyên tâm nghiên cứu tại Cambridge. Hay là về Israel, ghi tên
vào trường Technion ở Haifa.
Bế tắc trong việc lựa chọn tổ quốc cho
riêng mình, là Irasel hay là Mỹ, hay là công dân Anh, và thế là Yigal
chạy đến Tây Ban Nha du lịch, và cuối cùng theo chân các bạn trẻ khác
làm một vòng quanh thế giới.
Tuổi trẻ tươi đẹp, sống cháy hết mình, chính là những hình ảnh nói về Yigal
Thông qua câu chuyện về Yigal, tác giả
khắc họa tài tình về sự bất ổn, chiến tranh tại Quốc gia khởi nghiệp
Irasel với trận chiến 6 ngày trong đó Yigal đóng vai trò chủ chốt, đồng
thời James Michener cũng đã lý giải vì sao đất nước Do Thái này vẫn là
điểm đến đáng mơ ước của nhiều người mặc dù tình trạng chiến tranh luôn
tiếp diễn.
Thêm một lần nữa, kho kiến thức đồ sộ
của tác giả về chính trị, khoa học, địa chất được khai thác tối đa. Và
cuốn bách khoa thư này vẫn chưa có điểm dừng.
Gretchen, cô gái của Niềm hy vọng Mỹ
Nếu như Britta ứng xử tuyệt vời sau khi
bị lạm dụng tình dục, thì Gretchen mãi mãi bị ám ảnh bởi một vụ tương
tự, dù cô gái này thậm chí còn mạnh mẽ hơn cô gái Na Uy khi dám đứng lên
đấu tranh chính trị cho một nền dân chủ Mỹ.
Đánh đàn ghi ta điêu luyện, hát hay và
sẵn sàng chết vì McCarthy, vay 200$ để làm phí đào thoát cho một anh
chàng trốn quân dịch, Gretchen tìm mọi cách làm có thể để tin vào một
nước Mỹ tốt đẹp hơn. Gọi Gretchen là niềm hy vong Mỹ thật không sai chút
nào.
Viết về Gretchen, tác giả lồng vào đó
những khúc ballad ngọt ngào của các bản nhạc Child 305 khúc được cô gái
nhỏ nhắn này thể hiện, trước khi miêu tả kĩ càng về cơn ác mộng đã biến
Grettchen trở nên hoang mang: bị lạm dụng tình dục bởi cảnh sát, trong
khi cô đấu tranh vì hòa bình cho đất nước!
Lãng mạn với ballad hoa hồng & vỡ mộng vì tiếng súng! Miêu tả về Gretchen thế có lẽ là đủ.
Nhưng không, cô gái này còn làm được
nhiều điều tích cực hơn thế. Là điểm sáng hiếm hoi mà 5 người còn lại
không làm được, dù xuất phát điểm của cô có thể nói là kém hơn so với
phần còn lại. Những ý tưởng tươi mới của cô trong tập 2 sẽ là khúc giáng
ca ngọt ngào mà tác giả hiếm hoi thể hiện cho bạn đọc vì một ngày mai
tươi sáng.
Hết tập 1, đã xong màn dạo đầu, và hành trình của các bạn trẻ cũng mới chỉ ở bước đầu tiên!
Có vẻ như tác giả rất giỏi khi miêu tả
một thế giới đầy biến động với chiến tranh vùng Trung Đông, chiến tranh
Việt Nam, nạn phân biệt chủng tộc, … Tuy nhiên, sống trong một hiện thực
tàn khốc như thế, những thanh niên vỡ mộng về một cuộc sống màu hồng
chỉ còn biết cách chạy trốn. Trong suốt tập 1, chàng trai trẻ Joe chỉ
biết trốn quân dịch, không thèm đấu tranh cho nó, Britta thì không có ý
định trở về nhà để làm một cái gì đó tươi sáng hơn cho nơi cô được sinh
ra, Monica chết sau hành trình phiêu bạt, các đại diện khác của những
cuộc giải phóng dân tộc ở châu Phi cũng…chẳng làm gì khá hơn.
Các bạn trẻ phản kháng với xã hội rất
tốt, nhưng chưa góp phần xây dựng nó trở nên tốt đẹp hơn. Và rõ ràng là
tác giả cũng không có giải đáp cho những bài toán của hiện thực đương
thời, một thế giới bất ổn và nhiều nguy cơ bùng nổ
[Tập 2] Đêm phương nam ở Tây Ban Nha, Bò tót & Rừng rậm châu Phi đầy ám ảnh
Thay cho lời kết: Đôi điều về tác giả & tác phẩm
James Albert Michener là nhà văn nổi
tiếng người Mỹ với trên 40 đầu sách. Ông từng học và giảng dạy ở nhiều
trường đại học, nhận bằng thạc sỹ văn chương năm 1937 và có hơn 30 học
vị tiến sĩ danh dự về nhân văn, luật, thần học & khoa học.
Các tác phẩm của Michener bán được gần
80 triệu bản trên khắp thế giới, nhiều lần được chuyển thể thành phim và
nhận rất nhiều giải thưởng văn học uy tín (Giải Pulitzer, giải
Franklin, Huy chương Vàng của Viện nghiên cứu Tây Ban Nha, giải Einstein
của Einstein Medical College…)
Michener đã tặng hơn 100 triệu đô la tiền nhuận bút cho một số trường đại học, thư viện, viện bảo tàng, chương trình nghiên cứu…
Bảo tàng Nghệ thuật ở Doylestown, Pénsylvania, quê ông mang tên tên Michener.
Sáu người đi khắp thế gian (tên gốc là
The Drifters) được xuất bản năm 1971 và suốt sáu tháng liền nằm trong
danh sách những tác phẩm bán chạy nhất New York.
Thứ Hai, 5 tháng 11, 2018
CHỮ QUỐC NGỮ NƯỚC TA : TỪ ALEXANDRE DE RHODES ĐẾN TRƯƠNG VĨNH KÝ
21:06
No comments
• Năm 1625, Alexandre de Rhodes, tên Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, đi
thuyền tới Việt Nam, không ai ngờ rằng thời điểm này đã đánh dấu một
bước ngoặt lớn lao của ngôn ngữ Việt. Đó là sự bắt đầu hình thành của
chữ Quốc ngữ. Trong 300 năm, chữ Quốc ngữ đã phải trải qua bao nhiêu
sóng gió rồi cuối cùng thay thế hoàn toàn được chữ Nôm, chữ Hán để trở
thành chữ viết của người Việt. Chữ Quốc ngữ được xây dựng theo nguyên
tắc ký âm bằng chữ cái Latin (a,b,c,…), nên tương đối đơn giản, tiện
lợi, dễ học, dễ nhớ, đã giúp cho người Việt dễ dàng hội nhập với các
nước dùng chữ Latin hơn so với các nước theo chữ Hán như Trung Hoa, Nhật
Bản, Đại Hàn hay những nước theo chữ Ả Rập. Sự hội nhập nhanh chóng này
cũng tác động một phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí của một quốc
gia. Như hiện nay trong vấn đề giao dịch qua Internet, chữ Quốc ngữ đã
có rất nhiều lợi thế hơn hẳn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Hán
vừa khó đọc, khó viết và lại thêm khó sử dụng. Cũng từ đấy, người Việt
đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, mặc dù
nước ta đã bị phương Bắc đô hộ 1.000 năm. Đây có thể nói là một cuộc
chuyển hóa vô cùng lớn lao.
Bắt đầu với 8.000 từ ngữ đã được các giáo sĩ Bồ Đào Nha phiên âm vào thế kỷ thứ 17 với công dụng là truyền giáo, chữ Quốc ngữ đã không ngừng phát triển để đáp ứng được nhu cầu của người Việt trước những biến chuyển liên tục của văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và nhất là khoa học kỹ thuật. Giờ đây chữ Quốc ngữ đã có chỗ đứng vững vàng trong ngôn ngữ Việt Nam và đã có hơn 200.000 từ để có thể phiên dịch cuốn tự điển Anh quốc Oxford Advanced Learner‘s English Dictionary mà không bị lúng túng vì thiếu chữ, thiếu từ .Một số quốc gia khác cũng có những cố gắng để dùng phương pháp ký âm bằng chữ Latin, trong đó có nước Nhật với chữ Rōmaji. Nhưng chữ Rōmaji vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai, người Nhật vẫn chưa bỏ được chữ tượng hình của họ.
# Trước chữ Quốc ngữ, người Việt viết chữ gì?
Trước khi có chữ Quốc ngữ, người Việt đã có chữ Khoa đẩu, chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Khoa đẩu hay còn gọi chữ nòng nọc là chữ Việt cổ xuất hiện trong nền văn hóa tiền Việt-Mường, được tìm thấy trên các trống đồng, trên đá hay các di vật cổ xưa để lại. Khoa đẩu có nghĩa là đầu lớn, để chỉ hình tượng của chữ này: đầu lớn và những nét giống hình con nòng nọc. Đây là loại chữ tượng thanh, ghép nhiều chữ lại thành từ. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông nhắc đến tích là thời vua Nghiêu (2000 năm trước Công Nguyên) nước Việt Thường (vùng Nghệ An – Hà Tĩnh) tặng con rùa ngàn năm trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu: "Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” (nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu).
Sau khi chiếm được nước Nam Việt của Triệu Đà, nhà Hán thi hành chính sách Hán hóa dân tộc Việt. Các thái thú như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp bắt đốt hết sách vở còn như tướng Mã Viện (năm 43) thì tìm cách tận thu trống đồng. Người Việt bị bắt buộc phải dùng chữ Hán thay cho chữ Khoa đẩu và tưởng chừng như chữ Việt cổ đã bị thất truyền. Nhưng gần đây có ông Đỗ Văn Xuyền đã tuyên bố giải mã được chữ Khoa đẩu sau 50 năm mày mò tìm kiếm. Ông viết được bằng chữ Khoa đẩu bài Hịch của Hai Bà Trưng kêu gọi khởi nghĩa (năm 4.
Chữ Hán còn gọi chữ Nho hay chữ Trung Hoa là chữ tượng hình biểu ý. Người Việt ngày xưa sử dụng hai thứ tiếng: một là tiếng Hán Việt (đọc chữ Hán theo âm Việt) dành cho giới quan lại và khoa bảng và hai là tiếng Việt được sử dụng trong dân gian. Về chữ cũng vậy chúng ta có chữ Hán và chữ Nôm. Để ghi được tiếng nói của mình, người Việt đã sáng chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán nhưng lấy âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt. Chữ Nôm đã được hình thành bằng nhiều cách khác nhau, như ghép hai chữ Hán với nhau, thí dụ chữ „mắt“ ghép từ chữ „mục“ (biểu ý) và „mạt“ (biểu âm) hay mượn âm chữ Hán như chữ „tốt“ có nghĩa là „binh lính“ (chữ Hán) để ghi từ „tốt“ trong „tốt xấu“ của chữ Nôm .Có nhiều giả thuyết cho rằng chữ Nôm đã có từ thế kỷ thứ 3. Cũng có một số giả thuyết khác cho là chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ thứ 8, thời Phùng Hưng dấy quân khởi nghĩa dành lại độc lập cho Việt Nam (năm 791). Sau khi mất, Phùng Hưng được tôn vinh là Bố Cái Đại Vương. Bố Cái viết bằng chữ Nôm là Cha Mẹ. Nhưng đến thế kỷ 13, chữ Nôm mới được chính thức ghi nhận là xuất hiện qua bài văn “Tế cá sấu” bằng chữ Nôm do Nguyễn Thuyên được vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) sai làm để đuổi cá sấu.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm còn được lưu truyền đến ngày hôm nay như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục vân Tiên, Lục Súc Tranh Công,… cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Thuyên, Bà Huyện Thanh Quan, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tế Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,... Trong đó, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc nhất mà gần như người Việt nào cũng biết.
Đây là một thí dụ để thấy sự khác biệt giữa chữ Hán và chữ Nôm:
Hai câu trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, viết bằng chữ Hán:
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
(Mạch thượng tang, mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường)
viết bằng chữ Nôm do bà Đoàn Thị Điểm diễn dịch qua thể thơ song thất lục bát:
岸橷撑屹𠬠牟
𢚸払意妾埃愁欣埃
(Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?)
Sau khi chữ Khoa đẩu bị thất truyền, tưởng như thế người Việt sẽ bị hoàn toàn Hán hóa.
Nhưng không, người Việt lại một lần nữa mày mò sáng tạo ra chữ Nôm để ghi tiếng nói của mình. Cha ông chúng ta ý thức rất rõ ràng một dân tộc muốn tồn tại phải có chữ viết riêng.
# Alexandre Rhodes và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ
Vào thế kỷ 17, các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam để truyền đạo. Trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, có tên tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, thuộc dòng Tên (Jésuite) sinh năm 1591 ở Avignon miền nam nước Pháp. Năm 1625, ông cập bến Hội An ở Đà Nẵng và bắt đầu học tiếng Việt của một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Trong vòng 20 năm, ông đã bị trục xuất 6 lần. Tuy thế ông vẫn tìm cách trở lại Việt Nam, lúc đến Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên để truyền giáo, lúc đến Đàng Ngoài của chúa Trịnh Tráng. Cuối cùng vào năm 1645, ông bị chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất ra khỏi Việt Nam. Năm 1660, tức là 15 năm sau ông mất tại Ispahan ở Ba Tư (Iran). Tác phẩm của ông để lại là cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La
Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum. Đây là cuốn tự điển đầu tiên bằng ba thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha và Latin. Ông dùng chữ Latin nhưng lấy âm Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng Việt. Ông còn mượn thêm dấu lấy từ tiếng Cổ Hy Lạp (sắc, huyền, ngã,
…) để dùng cho 6 thanh điệu của tiếng Việt: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.
Ngoài ra còn một tác phẩm nữa của ông cũng không kém phần quan trọng, cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latin: Catechismus). Đây là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, sử dụng ngôn ngữ bình dân của người Việt vào thế kỷ 17. Qua cuốn sách, chúng ta có thêm rất nhiều dữ kiện đề nghiên cứu tiếng nói của người Việt vào thế kỷ đó.
Thật sự Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Nói đúng hơn, ông chỉ là người có công lớn trong việc hệ thống hóa ký âm tiếng Việt bằng chữ Latin và đã phổ biến chữ Quốc ngữ qua việc in cuốn tự điển Việt-Bồ-La vào năm 1651 tại Roma. Trước đó, vào thế kỷ 16 đã có các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam truyền giáo. Họ đã tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin để cho tiện việc giảng đạo mà không cần phải biết đọc hay biết viết chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên nhân chính là chữ Hán đối với họ đã khó đọc khó viết, lại thêm vào đó chữ Nôm còn rắc rối hơn một bậc. Chữ Nôm dựa vào chữ Hán nên muốn biết chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước và ngoài ra chữ Nôm không được thống nhất nên mỗi người có thể viết theo một cách khác nhau. Các giáo sĩ dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa.... là những người đi tiên phong trong công việc khai sáng ra chữ Quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở trường dạy tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó có Alexandre de Rhodes. Trong lời tựa cuốn tự điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes viết là ông đã dựa trên hai cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của Antonio Barbosa.
Rồi hơn 100 năm sau, giám mục Adran cho ra bộ tự điển Việt-Latin Dictionarium Anamitico-Latinum (năm 1773) do chính ông biên soạn, được viết bằng chữ Latin, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ông còn có tên Việt là Bá Đa Lộc hay còn gọi là Cha Cả, tên Pháp Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, sinh năm 1741 tại Pháp và mất năm 1799 tại Sài Gòn. Ông cũng là người đã từng giúp Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Nên sau khi mất, ông được nhà Nguyễn sắc phong cho danh hiệu Bi Nhu Quận công
Tiếp theo đó, năm 1838 giáo sĩ Tabert đã cùng với linh mục Philipphê Phan Văn Minh cho in tại Ấn Độ cuốn Từ điển Anamitico-Latinum Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị hay còn được gọi là Tự điển Tabert.
Đáng kể nhất là gần đây trước 1975, đã tìm thấy được một số tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Philipphê Bỉnh ở Lisabon, thủ đô của Bồ Đào Nha. Người ta chỉ biết Philipphê Bỉnh sinh tại Hải Dương năm 1759, ngoài ra về tiểu sử của ông thì hình như không ai rõ .Ông thụ phong Linh Mục dòng Tên năm 34 tuổi và ba năm sau qua Bồ Đào Nha với sứ mệnh là xin vua Bồ Đào Nha can thiệp với Tòa Thánh La Mã bãi bỏ lệnh đóng cửa dòng Tên ở Việt Nam. Ông đã ở lại đây đến cuối đời (năm 1832). Thời gian hơn 30 năm ở Bồ Đào Nha, ông đã viết hơn 21 cuốn sách bằng chữ Quốc ngữ, có cuốn đã in có cuốn viết tay. Sách ông bao gồm những đề tài có tính cách biên soạn tự điển, ký sự, nhật ký,… Đặc biệt là tác phẩm du ký Sách sổ sang chép các việc. Trong cuốn này tác giả viết rất tỉ mỉ trung thực những cái nhìn của ông về thời đại ông đang sống và nơi ông đi qua. Đây là một cuốn sách chữ Quốc ngữ do người Việt viết chứ không do một nguời ngoại quốc, nên nó tương đối rất gần với tiếng Việt bây giờ.
Ở thế kỷ 17, là thời điểm chữ Việt được khai sáng. Đọc những tác phẩm vào thời kỳ này vẫn còn thấy nhiều chỗ khó hiểu và tối nghĩa. Tuy mang tiếng ký âm từ tiếng Việt nhưng nhiều phát âm khác xa với tiếng Việt hôm nay. Trái lại sang thế kỷ thứ 18, chữ Quốc ngữ đã vào thời kỳ hoàn chỉnh. Với những tác phẩm của Philipphê Bỉnh đã chứng tỏ chữ nghĩa thời đó đã tiến gần với tiếng Việt ngày nay, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của chữ Việt trong một thế kỷ qua. Nhưng tựu trung chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17 hay 18 vẫn chỉ dùng trong nhà thờ mục đích để giảng đạo và chưa được truyền bá nhiều ra ngoài. Người Việt với tinh thần bài ngoại để sinh tồn, nên lúc đó họ đã không chịu tiếp nhận chữ Quốc ngữ là chữ viết của mình. Phải đến cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ mới thật sự phát triển vượt bực để trở thành đúng như tên của nó đã được đặt „chữ của một quốc gia“.
# Trương Vĩnh Ký và thời kỳ phát triển chữ Quốc ngữ
Năm 1862, nguời Pháp sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông của miền Nam Việt Nam và năm 1867 lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại, họ bắt đầu xây dựng nền hành chánh ở Việt Nam rập khuôn mẫu từ Pháp mang qua. Lúc đầu, chữ Pháp được sử dụng trong mọi văn tự hành chánh thay cho chữ Hán. Sau này, dần dần chữ Pháp được thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Ngày 1.1.1879 chính quyền thực dân Pháp chính thức ra nghị định bắt buộc Việt Nam phải dùng „tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin“ trong hệ thống hành chính, với ý định tách người Việt hoàn toàn ra khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa. Thời gian đầu, người Pháp một mặt thì cưỡng bách một mặt thì vuốt ve để cho người Việt đi học trường dạy chữ Quốc ngữ. Trường Trung Học Adran (1861 - 1887) lả trường dạy Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn [5]. Sau này vào năm 1954, trường Adran Sài Gòn được chia thành 2 Trường: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
Song song với việc mở trường dạy học, người Pháp còn cho ra tờ Gia Định Báo (1865 - 1897) là tờ báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được ra mắt vào năm 1865 tại Sài Gòn. Lúc ban đầu tờ báo này chỉ là một công cụ thông tin của Pháp, từ năm 1869 được giao cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc và Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút. Từ đó tờ Gia Định Báo mới thật sự khởi sắc, vì đã được phát triển thêm các mục biên khảo, lịch sử, thơ văn, nghệ thuật…. Tờ báo này đã góp phần không nhỏ vào việc cổ động học chữ Quốc ngữ, khuyến khích theo tân học, mở đường cho sự sáng tác các thể loại thơ văn bằng chữ Quốc ngữ và tạo nền móng cho sự nở rộ của báo chí Việt Nam sau này.
Nói đến Gia Định Báo, thì không thể không nhắc đến Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) còn có tên là Petrus Ký làm giám đốc tờ báo. Ông là một con người có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, trong lĩnh vực văn hóa lẫn trong lĩnh vực xã hội, khoa học. Ông dịch sách chữ Hán, phiên âm ra chữ Quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công, Gia huấn ca,… và biên soạn Chuyện khôi hài, Chuyện đời xưa,… Ông để lại cho hậu thế một gia tài khổng lồ với 118 tác phẩm, gồm những sách nghiên cứu, sưu tầm, phiên âm, dịch thuật trong đó có cả chục tác phẩm bằng Pháp văn. Ông thông thạo 27 ngoại ngữ, được tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse. Sự nghiệp của ông thật là phi thường và hiếm có nhất là trong giai đoạn giao thời giữa văn hóa Đông Tây ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông luôn tìm cách cổ võ cho sự sử dụng chữ Quốc ngữ. Ông viết trên Gia Định Báo ngày 15.4.1867: „Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết“.
Nhận ra được sự lợi ích của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ dễ đọc dễ viết, nên vào đầu thế kỷ 20, một số trí thức Việt Nam trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc,.. đã đứng ra mở ở Hà Nội trường Đông Kinh nghĩa thục (3.1907 - 11.1907) để đẩy mạnh phong trào canh tân đất nước. Trường dạy học miễn phí với mục đích chính là khai trí cho dân. Trường nhanh chóng trở nên nổi tiếng, sau này trở thành một phong trào. Chủ trương của trường là bỏ lối học từ chương khoa cử, theo tân học thực tiễn, sử dụng chữ Quốc ngữ trong các hoạt động văn hóa và gíáo dục như in sách giáo khoa, dịch thuật, báo chí. Truờng cử nguời đi khắp nơi để diễn thuyết, cổ động cho cải cách, bài trừ hủ tục, và còn ra hai tờ báo Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo làm cơ quan ngôn luận cho trường. Mặc dù chỉ sống được một giai đoạn ngắn, từ tháng 3 năm 1907 đến tháng 11 năm 1907, truờng Đông Kinh nghĩa thục đã tạo một tiếng vang lớn vào thời đó. Những câu thơ, câu vè đã được trường đặt ra để kêu gọi mọi người bỏ cũ, theo mới, học chữ Quốc ngữ vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay;
Trong lịch sử phát triển chữ Quốc ngữ không thể vắng bóng khuôn mặt của Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936). Ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội, làm chủ bút tờ Đăng cổ tùng báo (3.1907 - 11.1907), là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội và cũng là một tờ báo đầu tiên do tư nhân lập ra. Tờ Đăng cổ tùng báo đã đánh dấu một khúc quanh mới của báo chí Việt Nam không chỉ đơn thuần hoạt động trong phạm vi văn hóa nghệ thuật mà còn đi vào trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và đã phản ảnh được cuộc sống thực tại ở Viêt Nam thời đó. Đứng trước các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục đang bùng nổ, người Pháp đã phải đóng cửa Đăng cổ tùng báo, vì tờ báo dám cổ vũ cho tự do, dân chủ. Năm 1913 ông cho ra tờ Đông dương Tạp chí (1913 - 1919) để truyền bá chữ Quốc ngữ và tư tưởng Âu Tây bằng những tác phẩm của nước ngoài do ông dịch như: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Những người khốn khổ tiểu thuyết của Victor Hugo,…. Ông còn dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Ông thành lập ra hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách và là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp. Ngoài ra ông còn hoạt động cho trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi Phan Chu Trinh, người phát động ra phong trào Duy Tân, bị bắt năm 1908, ông đã cùng với bốn người Pháp ký tên đòi Pháp phải trả tự do cho Phan Chu Trinh. Cuộc đời ông là một chuỗi dài của ngày tháng cống hiến cho đất nước, cho văn học, cho báo chí Việt Nam. Ông đã nhắn nhủ lại cho hậu thế: „Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ“. Nguyễn Văn Vĩnh và Trương Vĩnh Ký được nhiều người sau này vinh danh là: „Ông tổ của nghề báo Việt Nam“ .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển chữ Quốc ngữ, không thể quên được sự đóng góp của Phạm Quỳnh (1892 – 1945). Ông bút hiệu là Thượng Chi, là một nhà văn hóa, nhà văn và nhà báo. Ông đã viết rất nhiều bài về văn học, triết học, tùy bút và dịch từ những tác phẩm của Pháp ra tiếng Việt. Tất cả tác phẩm của ông được đăng trên tờ Nam Phong tạp chí (1917 - 1934) do ông làm chủ nhiệm và chủ bút. Tạp chí dã được đánh giá cao về mặt trí thức và tư tưởng. Có người còn ví rằng Nam Phong Tạp Chí như một bộ bách khoa toàn thư của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chỉ cần đọc đều đặn tạp chí này là đã có một số vốn kiến thức căn bản mà không cần phải biết chữ Pháp hay chữ Hán. Ông viết nếu chúng ta biết giữ gìn văn hóa của dân tộc, biết giữ gìn tiếng nói, chữ viết của dân tộc thì chúng ta không sợ bị mất nước: „Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
Năm 1933, văn học Việt Nam có những chuyển biến rất mạnh mẽ đó là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam,… khởi xướng. Đây là một tổ chức văn học đầu tiên ở Việt Nam có tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều). Hoạt động chủ yếu của Tự Lực Văn Đoàn là viết văn, làm báo và in sách. Họ ra được 2 tờ tuần báo Phong hóa (1932 - 1936) và Ngày nay (1936 - 1946). Tự lực Văn Đoàn đã đi tiên phong trong lãnh vực tiểu thuyết mới và thơ mới (thơ tự do). Tiểu thuyết Tự LựcVăn Đoàn mặc dù mang tính chất lãng mạn nhưng luôn luôn chất chứa tinh thần đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, đòi tự do, bình đẳng cho con người. Đây là một loại tiểu thuyết luận đề, lấy một câu chuyện hư cấu để thể hiện nhân sinh quan của tác giả.
# Kết luận
Năm 1625 là năm Alexandre de Rhodes đặt chân lần đầu tiên lên Hội An ở Đà Nẵng. Hơn 300 năm sau, không ai ngờ rằng người Việt lại có một chữ viết hoàn chỉnh, đó là chữ Quốc ngữ. Một thứ chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ viết và nhờ tính chất này chữ Quốc ngữ đã đóng góp rất lớn lao vào việc mở mang dân trí, giảm thiểu nạn mù chữ. Chỉ cần một thời gian ngắn vài tháng là có thể đọc và viết được chữ Quốc ngữ, trong khi đó chữ Hán phải cần một thời gian lâu hơn, trung bình khoảng 2 hay 3 năm để nhớ được mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường dùng .
Trí thức Việt Nam ở cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã nhìn thấy cái nhu cầu cấp bách của một dân tộc đang cần có một chữ viết xứng đáng. Sau 1.000 năm Bắc thuộc, dưới chính sách Hán hóa, người Việt bị mất chữ Khoa đẩu của mình, họ phải viết một thứ chữ là chữ của người Hán. Không muốn bị đồng hóa như các dân tộc khác, ngưòi Việt đi tìm một thứ chữ để ghi lại tiếng nói của mình. Mấy thế kỷ liền, họ mày mò tìm ra chữ Nôm. Tuy thế chữ Nôm chắc chắn không phải là giải pháp hoàn hảo nhất vì chữ Nôm vẫn dựa trên cơ sở chữ Hán, nên muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán. Trải qua bao nhiêu triều đại vua chúa, chữ Nôm cũng không được sử dụng trong chốn triều đình. Duy chỉ có hai đời vua duy nhất là Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ định lấy chữ Nôm thay cho chữ Hán trong các văn kiện hành chính, nhưng tiếc thay việc ấy không thành. Chữ Nôm khó học, nên chỉ dành cho giới khoa bảng và phần đông người dân bình thường thì không biết đọc và không biết viết. Trong buổi giao thời gìữa văn hóa Đông Tây vào cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ đã đến kịp thời. Các trí thức Việt Nam như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,… đã nhanh tay nắm lấy cơ hội đó, mặc dầu lúc ban đầu phải dựa vào người Pháp để được viết văn, ra báo. Những tác phẩm biên khảo, bình luận, phóng sự, du ký, tiểu thuyết, thơ phú của Gia Định Báo, Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn,… đã chứng minh được chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự cho người Việt.
Nhưng chữ Quốc ngữ không dừng ở chỗ văn tự cho một dân tộc, nó còn là cái gốc của dân tộc, như Trần Quý Cáp đã viết „Chữ quốc ngữ là hồn trong nước“. Nguời Việt thuộc về tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt gồm có các dân tộc như U Việt (ở Chiết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Lạc Việt (ở Việt Nam), Âu Việt (ở Quảng Đông, Quảng Tây), Chiêm Việt (đảo Hải Nam),… đã sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho đến Bắc Việt Nam. Sau 1.000 năm bị đô hộ, người Việt vẫn giữ được bản sắc của mình không để bị đồng hóa, trong khi đó các dân tộc khác thuộc nhóm Bách Việt đều bị Hán hóa hay bị tiêu diệt. Tại sao? Nhà văn Ngô Nhân Dụng trong cuốn „Đứng vững ngàn năm“, đã trả lời là nhờ có tiếng nói. Ông đưa một thí dụ, dân tộc Mãn Thanh một thời rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ 17 đã chiếm được Trung Quốc. Họ có tiếng nói và chữ viết riêng. Sau khi nhà Mãn Thanh sụp đổ, năm 1911 ở Mãn Châu có chục triệu người nói được tiếng Mãn, năm 2011 thì thế hệ những người biết nói tiếng Mãn chết dần, không còn được bao nhiêu. Nhà văn Ngô Nhân Dụng khẳng định „không giữ được tiếng nói thì mất nước“ .
Như vậy tiếng nói của một dân tộc quan trọng biết bao nhiêu. Muốn gìn giữ tiếng nói thì phải có chữ viết để lưu giữ lại tiếng nói. Nên địa vị của chữ viết cũng không kém phần quan trọng. Vào cuối thế kỷ 19, khi chữ Quốc ngữ xuất hiện và đẩy chữ Hán đi vào bóng tối, văn học Việt Nam bừng dậy và nở rộ vì thoát khỏi được cái nôi của văn hóa chữ Hán, trong đầu người Việt không còn bị gò bó vì Tứ Thư Ngũ Kinh, không còn bị chế ngự bởi các điển tích bên Trung Quốc xa lắc xa lơ. Người Việt đã trở về tình tự với cội nguồn thật sự của mình:
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi
(Tình ca tiếng nước tôi - Phạm Duy)
Mùa Xuân 2014
Lương Nguyên Hiền
Bắt đầu với 8.000 từ ngữ đã được các giáo sĩ Bồ Đào Nha phiên âm vào thế kỷ thứ 17 với công dụng là truyền giáo, chữ Quốc ngữ đã không ngừng phát triển để đáp ứng được nhu cầu của người Việt trước những biến chuyển liên tục của văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và nhất là khoa học kỹ thuật. Giờ đây chữ Quốc ngữ đã có chỗ đứng vững vàng trong ngôn ngữ Việt Nam và đã có hơn 200.000 từ để có thể phiên dịch cuốn tự điển Anh quốc Oxford Advanced Learner‘s English Dictionary mà không bị lúng túng vì thiếu chữ, thiếu từ .Một số quốc gia khác cũng có những cố gắng để dùng phương pháp ký âm bằng chữ Latin, trong đó có nước Nhật với chữ Rōmaji. Nhưng chữ Rōmaji vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai, người Nhật vẫn chưa bỏ được chữ tượng hình của họ.
# Trước chữ Quốc ngữ, người Việt viết chữ gì?
Trước khi có chữ Quốc ngữ, người Việt đã có chữ Khoa đẩu, chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Khoa đẩu hay còn gọi chữ nòng nọc là chữ Việt cổ xuất hiện trong nền văn hóa tiền Việt-Mường, được tìm thấy trên các trống đồng, trên đá hay các di vật cổ xưa để lại. Khoa đẩu có nghĩa là đầu lớn, để chỉ hình tượng của chữ này: đầu lớn và những nét giống hình con nòng nọc. Đây là loại chữ tượng thanh, ghép nhiều chữ lại thành từ. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông nhắc đến tích là thời vua Nghiêu (2000 năm trước Công Nguyên) nước Việt Thường (vùng Nghệ An – Hà Tĩnh) tặng con rùa ngàn năm trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu: "Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” (nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu).
Sau khi chiếm được nước Nam Việt của Triệu Đà, nhà Hán thi hành chính sách Hán hóa dân tộc Việt. Các thái thú như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp bắt đốt hết sách vở còn như tướng Mã Viện (năm 43) thì tìm cách tận thu trống đồng. Người Việt bị bắt buộc phải dùng chữ Hán thay cho chữ Khoa đẩu và tưởng chừng như chữ Việt cổ đã bị thất truyền. Nhưng gần đây có ông Đỗ Văn Xuyền đã tuyên bố giải mã được chữ Khoa đẩu sau 50 năm mày mò tìm kiếm. Ông viết được bằng chữ Khoa đẩu bài Hịch của Hai Bà Trưng kêu gọi khởi nghĩa (năm 4.
Chữ Hán còn gọi chữ Nho hay chữ Trung Hoa là chữ tượng hình biểu ý. Người Việt ngày xưa sử dụng hai thứ tiếng: một là tiếng Hán Việt (đọc chữ Hán theo âm Việt) dành cho giới quan lại và khoa bảng và hai là tiếng Việt được sử dụng trong dân gian. Về chữ cũng vậy chúng ta có chữ Hán và chữ Nôm. Để ghi được tiếng nói của mình, người Việt đã sáng chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán nhưng lấy âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt. Chữ Nôm đã được hình thành bằng nhiều cách khác nhau, như ghép hai chữ Hán với nhau, thí dụ chữ „mắt“ ghép từ chữ „mục“ (biểu ý) và „mạt“ (biểu âm) hay mượn âm chữ Hán như chữ „tốt“ có nghĩa là „binh lính“ (chữ Hán) để ghi từ „tốt“ trong „tốt xấu“ của chữ Nôm .Có nhiều giả thuyết cho rằng chữ Nôm đã có từ thế kỷ thứ 3. Cũng có một số giả thuyết khác cho là chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ thứ 8, thời Phùng Hưng dấy quân khởi nghĩa dành lại độc lập cho Việt Nam (năm 791). Sau khi mất, Phùng Hưng được tôn vinh là Bố Cái Đại Vương. Bố Cái viết bằng chữ Nôm là Cha Mẹ. Nhưng đến thế kỷ 13, chữ Nôm mới được chính thức ghi nhận là xuất hiện qua bài văn “Tế cá sấu” bằng chữ Nôm do Nguyễn Thuyên được vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) sai làm để đuổi cá sấu.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm còn được lưu truyền đến ngày hôm nay như Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục vân Tiên, Lục Súc Tranh Công,… cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Nguyễn Thuyên, Bà Huyện Thanh Quan, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Tế Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,... Trong đó, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc nhất mà gần như người Việt nào cũng biết.
Đây là một thí dụ để thấy sự khác biệt giữa chữ Hán và chữ Nôm:
Hai câu trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, viết bằng chữ Hán:
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
(Mạch thượng tang, mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường)
viết bằng chữ Nôm do bà Đoàn Thị Điểm diễn dịch qua thể thơ song thất lục bát:
岸橷撑屹𠬠牟
𢚸払意妾埃愁欣埃
(Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?)
Sau khi chữ Khoa đẩu bị thất truyền, tưởng như thế người Việt sẽ bị hoàn toàn Hán hóa.
Nhưng không, người Việt lại một lần nữa mày mò sáng tạo ra chữ Nôm để ghi tiếng nói của mình. Cha ông chúng ta ý thức rất rõ ràng một dân tộc muốn tồn tại phải có chữ viết riêng.
# Alexandre Rhodes và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ
Vào thế kỷ 17, các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam để truyền đạo. Trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, có tên tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, thuộc dòng Tên (Jésuite) sinh năm 1591 ở Avignon miền nam nước Pháp. Năm 1625, ông cập bến Hội An ở Đà Nẵng và bắt đầu học tiếng Việt của một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Trong vòng 20 năm, ông đã bị trục xuất 6 lần. Tuy thế ông vẫn tìm cách trở lại Việt Nam, lúc đến Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên để truyền giáo, lúc đến Đàng Ngoài của chúa Trịnh Tráng. Cuối cùng vào năm 1645, ông bị chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất ra khỏi Việt Nam. Năm 1660, tức là 15 năm sau ông mất tại Ispahan ở Ba Tư (Iran). Tác phẩm của ông để lại là cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La
Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum. Đây là cuốn tự điển đầu tiên bằng ba thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha và Latin. Ông dùng chữ Latin nhưng lấy âm Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng Việt. Ông còn mượn thêm dấu lấy từ tiếng Cổ Hy Lạp (sắc, huyền, ngã,
…) để dùng cho 6 thanh điệu của tiếng Việt: ngang (không dấu), huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.
Ngoài ra còn một tác phẩm nữa của ông cũng không kém phần quan trọng, cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latin: Catechismus). Đây là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, sử dụng ngôn ngữ bình dân của người Việt vào thế kỷ 17. Qua cuốn sách, chúng ta có thêm rất nhiều dữ kiện đề nghiên cứu tiếng nói của người Việt vào thế kỷ đó.
Thật sự Alexandre de Rhodes không phải là người đầu tiên khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Nói đúng hơn, ông chỉ là người có công lớn trong việc hệ thống hóa ký âm tiếng Việt bằng chữ Latin và đã phổ biến chữ Quốc ngữ qua việc in cuốn tự điển Việt-Bồ-La vào năm 1651 tại Roma. Trước đó, vào thế kỷ 16 đã có các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam truyền giáo. Họ đã tìm cách phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin để cho tiện việc giảng đạo mà không cần phải biết đọc hay biết viết chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên nhân chính là chữ Hán đối với họ đã khó đọc khó viết, lại thêm vào đó chữ Nôm còn rắc rối hơn một bậc. Chữ Nôm dựa vào chữ Hán nên muốn biết chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước và ngoài ra chữ Nôm không được thống nhất nên mỗi người có thể viết theo một cách khác nhau. Các giáo sĩ dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa.... là những người đi tiên phong trong công việc khai sáng ra chữ Quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở trường dạy tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó có Alexandre de Rhodes. Trong lời tựa cuốn tự điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes viết là ông đã dựa trên hai cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của Antonio Barbosa.
Rồi hơn 100 năm sau, giám mục Adran cho ra bộ tự điển Việt-Latin Dictionarium Anamitico-Latinum (năm 1773) do chính ông biên soạn, được viết bằng chữ Latin, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ông còn có tên Việt là Bá Đa Lộc hay còn gọi là Cha Cả, tên Pháp Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, sinh năm 1741 tại Pháp và mất năm 1799 tại Sài Gòn. Ông cũng là người đã từng giúp Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Nên sau khi mất, ông được nhà Nguyễn sắc phong cho danh hiệu Bi Nhu Quận công
Tiếp theo đó, năm 1838 giáo sĩ Tabert đã cùng với linh mục Philipphê Phan Văn Minh cho in tại Ấn Độ cuốn Từ điển Anamitico-Latinum Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị hay còn được gọi là Tự điển Tabert.
Đáng kể nhất là gần đây trước 1975, đã tìm thấy được một số tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ của Philipphê Bỉnh ở Lisabon, thủ đô của Bồ Đào Nha. Người ta chỉ biết Philipphê Bỉnh sinh tại Hải Dương năm 1759, ngoài ra về tiểu sử của ông thì hình như không ai rõ .Ông thụ phong Linh Mục dòng Tên năm 34 tuổi và ba năm sau qua Bồ Đào Nha với sứ mệnh là xin vua Bồ Đào Nha can thiệp với Tòa Thánh La Mã bãi bỏ lệnh đóng cửa dòng Tên ở Việt Nam. Ông đã ở lại đây đến cuối đời (năm 1832). Thời gian hơn 30 năm ở Bồ Đào Nha, ông đã viết hơn 21 cuốn sách bằng chữ Quốc ngữ, có cuốn đã in có cuốn viết tay. Sách ông bao gồm những đề tài có tính cách biên soạn tự điển, ký sự, nhật ký,… Đặc biệt là tác phẩm du ký Sách sổ sang chép các việc. Trong cuốn này tác giả viết rất tỉ mỉ trung thực những cái nhìn của ông về thời đại ông đang sống và nơi ông đi qua. Đây là một cuốn sách chữ Quốc ngữ do người Việt viết chứ không do một nguời ngoại quốc, nên nó tương đối rất gần với tiếng Việt bây giờ.
Ở thế kỷ 17, là thời điểm chữ Việt được khai sáng. Đọc những tác phẩm vào thời kỳ này vẫn còn thấy nhiều chỗ khó hiểu và tối nghĩa. Tuy mang tiếng ký âm từ tiếng Việt nhưng nhiều phát âm khác xa với tiếng Việt hôm nay. Trái lại sang thế kỷ thứ 18, chữ Quốc ngữ đã vào thời kỳ hoàn chỉnh. Với những tác phẩm của Philipphê Bỉnh đã chứng tỏ chữ nghĩa thời đó đã tiến gần với tiếng Việt ngày nay, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của chữ Việt trong một thế kỷ qua. Nhưng tựu trung chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17 hay 18 vẫn chỉ dùng trong nhà thờ mục đích để giảng đạo và chưa được truyền bá nhiều ra ngoài. Người Việt với tinh thần bài ngoại để sinh tồn, nên lúc đó họ đã không chịu tiếp nhận chữ Quốc ngữ là chữ viết của mình. Phải đến cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ mới thật sự phát triển vượt bực để trở thành đúng như tên của nó đã được đặt „chữ của một quốc gia“.
# Trương Vĩnh Ký và thời kỳ phát triển chữ Quốc ngữ
Năm 1862, nguời Pháp sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông của miền Nam Việt Nam và năm 1867 lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại, họ bắt đầu xây dựng nền hành chánh ở Việt Nam rập khuôn mẫu từ Pháp mang qua. Lúc đầu, chữ Pháp được sử dụng trong mọi văn tự hành chánh thay cho chữ Hán. Sau này, dần dần chữ Pháp được thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Ngày 1.1.1879 chính quyền thực dân Pháp chính thức ra nghị định bắt buộc Việt Nam phải dùng „tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin“ trong hệ thống hành chính, với ý định tách người Việt hoàn toàn ra khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa. Thời gian đầu, người Pháp một mặt thì cưỡng bách một mặt thì vuốt ve để cho người Việt đi học trường dạy chữ Quốc ngữ. Trường Trung Học Adran (1861 - 1887) lả trường dạy Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn [5]. Sau này vào năm 1954, trường Adran Sài Gòn được chia thành 2 Trường: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
Song song với việc mở trường dạy học, người Pháp còn cho ra tờ Gia Định Báo (1865 - 1897) là tờ báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được ra mắt vào năm 1865 tại Sài Gòn. Lúc ban đầu tờ báo này chỉ là một công cụ thông tin của Pháp, từ năm 1869 được giao cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc và Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút. Từ đó tờ Gia Định Báo mới thật sự khởi sắc, vì đã được phát triển thêm các mục biên khảo, lịch sử, thơ văn, nghệ thuật…. Tờ báo này đã góp phần không nhỏ vào việc cổ động học chữ Quốc ngữ, khuyến khích theo tân học, mở đường cho sự sáng tác các thể loại thơ văn bằng chữ Quốc ngữ và tạo nền móng cho sự nở rộ của báo chí Việt Nam sau này.
Nói đến Gia Định Báo, thì không thể không nhắc đến Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) còn có tên là Petrus Ký làm giám đốc tờ báo. Ông là một con người có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, trong lĩnh vực văn hóa lẫn trong lĩnh vực xã hội, khoa học. Ông dịch sách chữ Hán, phiên âm ra chữ Quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công, Gia huấn ca,… và biên soạn Chuyện khôi hài, Chuyện đời xưa,… Ông để lại cho hậu thế một gia tài khổng lồ với 118 tác phẩm, gồm những sách nghiên cứu, sưu tầm, phiên âm, dịch thuật trong đó có cả chục tác phẩm bằng Pháp văn. Ông thông thạo 27 ngoại ngữ, được tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse. Sự nghiệp của ông thật là phi thường và hiếm có nhất là trong giai đoạn giao thời giữa văn hóa Đông Tây ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông luôn tìm cách cổ võ cho sự sử dụng chữ Quốc ngữ. Ông viết trên Gia Định Báo ngày 15.4.1867: „Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết“.
Nhận ra được sự lợi ích của chữ Quốc ngữ, một thứ chữ dễ đọc dễ viết, nên vào đầu thế kỷ 20, một số trí thức Việt Nam trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc,.. đã đứng ra mở ở Hà Nội trường Đông Kinh nghĩa thục (3.1907 - 11.1907) để đẩy mạnh phong trào canh tân đất nước. Trường dạy học miễn phí với mục đích chính là khai trí cho dân. Trường nhanh chóng trở nên nổi tiếng, sau này trở thành một phong trào. Chủ trương của trường là bỏ lối học từ chương khoa cử, theo tân học thực tiễn, sử dụng chữ Quốc ngữ trong các hoạt động văn hóa và gíáo dục như in sách giáo khoa, dịch thuật, báo chí. Truờng cử nguời đi khắp nơi để diễn thuyết, cổ động cho cải cách, bài trừ hủ tục, và còn ra hai tờ báo Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo làm cơ quan ngôn luận cho trường. Mặc dù chỉ sống được một giai đoạn ngắn, từ tháng 3 năm 1907 đến tháng 11 năm 1907, truờng Đông Kinh nghĩa thục đã tạo một tiếng vang lớn vào thời đó. Những câu thơ, câu vè đã được trường đặt ra để kêu gọi mọi người bỏ cũ, theo mới, học chữ Quốc ngữ vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay;
Trong lịch sử phát triển chữ Quốc ngữ không thể vắng bóng khuôn mặt của Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936). Ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội, làm chủ bút tờ Đăng cổ tùng báo (3.1907 - 11.1907), là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội và cũng là một tờ báo đầu tiên do tư nhân lập ra. Tờ Đăng cổ tùng báo đã đánh dấu một khúc quanh mới của báo chí Việt Nam không chỉ đơn thuần hoạt động trong phạm vi văn hóa nghệ thuật mà còn đi vào trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và đã phản ảnh được cuộc sống thực tại ở Viêt Nam thời đó. Đứng trước các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục đang bùng nổ, người Pháp đã phải đóng cửa Đăng cổ tùng báo, vì tờ báo dám cổ vũ cho tự do, dân chủ. Năm 1913 ông cho ra tờ Đông dương Tạp chí (1913 - 1919) để truyền bá chữ Quốc ngữ và tư tưởng Âu Tây bằng những tác phẩm của nước ngoài do ông dịch như: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Những người khốn khổ tiểu thuyết của Victor Hugo,…. Ông còn dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Ông thành lập ra hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách và là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp. Ngoài ra ông còn hoạt động cho trường Đông Kinh nghĩa thục. Khi Phan Chu Trinh, người phát động ra phong trào Duy Tân, bị bắt năm 1908, ông đã cùng với bốn người Pháp ký tên đòi Pháp phải trả tự do cho Phan Chu Trinh. Cuộc đời ông là một chuỗi dài của ngày tháng cống hiến cho đất nước, cho văn học, cho báo chí Việt Nam. Ông đã nhắn nhủ lại cho hậu thế: „Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ“. Nguyễn Văn Vĩnh và Trương Vĩnh Ký được nhiều người sau này vinh danh là: „Ông tổ của nghề báo Việt Nam“ .
Trong công cuộc xây dựng và phát triển chữ Quốc ngữ, không thể quên được sự đóng góp của Phạm Quỳnh (1892 – 1945). Ông bút hiệu là Thượng Chi, là một nhà văn hóa, nhà văn và nhà báo. Ông đã viết rất nhiều bài về văn học, triết học, tùy bút và dịch từ những tác phẩm của Pháp ra tiếng Việt. Tất cả tác phẩm của ông được đăng trên tờ Nam Phong tạp chí (1917 - 1934) do ông làm chủ nhiệm và chủ bút. Tạp chí dã được đánh giá cao về mặt trí thức và tư tưởng. Có người còn ví rằng Nam Phong Tạp Chí như một bộ bách khoa toàn thư của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chỉ cần đọc đều đặn tạp chí này là đã có một số vốn kiến thức căn bản mà không cần phải biết chữ Pháp hay chữ Hán. Ông viết nếu chúng ta biết giữ gìn văn hóa của dân tộc, biết giữ gìn tiếng nói, chữ viết của dân tộc thì chúng ta không sợ bị mất nước: „Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
Năm 1933, văn học Việt Nam có những chuyển biến rất mạnh mẽ đó là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam,… khởi xướng. Đây là một tổ chức văn học đầu tiên ở Việt Nam có tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều). Hoạt động chủ yếu của Tự Lực Văn Đoàn là viết văn, làm báo và in sách. Họ ra được 2 tờ tuần báo Phong hóa (1932 - 1936) và Ngày nay (1936 - 1946). Tự lực Văn Đoàn đã đi tiên phong trong lãnh vực tiểu thuyết mới và thơ mới (thơ tự do). Tiểu thuyết Tự LựcVăn Đoàn mặc dù mang tính chất lãng mạn nhưng luôn luôn chất chứa tinh thần đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, đòi tự do, bình đẳng cho con người. Đây là một loại tiểu thuyết luận đề, lấy một câu chuyện hư cấu để thể hiện nhân sinh quan của tác giả.
# Kết luận
Năm 1625 là năm Alexandre de Rhodes đặt chân lần đầu tiên lên Hội An ở Đà Nẵng. Hơn 300 năm sau, không ai ngờ rằng người Việt lại có một chữ viết hoàn chỉnh, đó là chữ Quốc ngữ. Một thứ chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ viết và nhờ tính chất này chữ Quốc ngữ đã đóng góp rất lớn lao vào việc mở mang dân trí, giảm thiểu nạn mù chữ. Chỉ cần một thời gian ngắn vài tháng là có thể đọc và viết được chữ Quốc ngữ, trong khi đó chữ Hán phải cần một thời gian lâu hơn, trung bình khoảng 2 hay 3 năm để nhớ được mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường dùng .
Trí thức Việt Nam ở cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đã nhìn thấy cái nhu cầu cấp bách của một dân tộc đang cần có một chữ viết xứng đáng. Sau 1.000 năm Bắc thuộc, dưới chính sách Hán hóa, người Việt bị mất chữ Khoa đẩu của mình, họ phải viết một thứ chữ là chữ của người Hán. Không muốn bị đồng hóa như các dân tộc khác, ngưòi Việt đi tìm một thứ chữ để ghi lại tiếng nói của mình. Mấy thế kỷ liền, họ mày mò tìm ra chữ Nôm. Tuy thế chữ Nôm chắc chắn không phải là giải pháp hoàn hảo nhất vì chữ Nôm vẫn dựa trên cơ sở chữ Hán, nên muốn biết chữ Nôm phải biết chữ Hán. Trải qua bao nhiêu triều đại vua chúa, chữ Nôm cũng không được sử dụng trong chốn triều đình. Duy chỉ có hai đời vua duy nhất là Hồ Quý Ly và Nguyễn Huệ định lấy chữ Nôm thay cho chữ Hán trong các văn kiện hành chính, nhưng tiếc thay việc ấy không thành. Chữ Nôm khó học, nên chỉ dành cho giới khoa bảng và phần đông người dân bình thường thì không biết đọc và không biết viết. Trong buổi giao thời gìữa văn hóa Đông Tây vào cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ đã đến kịp thời. Các trí thức Việt Nam như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,… đã nhanh tay nắm lấy cơ hội đó, mặc dầu lúc ban đầu phải dựa vào người Pháp để được viết văn, ra báo. Những tác phẩm biên khảo, bình luận, phóng sự, du ký, tiểu thuyết, thơ phú của Gia Định Báo, Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn,… đã chứng minh được chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự cho người Việt.
Nhưng chữ Quốc ngữ không dừng ở chỗ văn tự cho một dân tộc, nó còn là cái gốc của dân tộc, như Trần Quý Cáp đã viết „Chữ quốc ngữ là hồn trong nước“. Nguời Việt thuộc về tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt gồm có các dân tộc như U Việt (ở Chiết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Lạc Việt (ở Việt Nam), Âu Việt (ở Quảng Đông, Quảng Tây), Chiêm Việt (đảo Hải Nam),… đã sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho đến Bắc Việt Nam. Sau 1.000 năm bị đô hộ, người Việt vẫn giữ được bản sắc của mình không để bị đồng hóa, trong khi đó các dân tộc khác thuộc nhóm Bách Việt đều bị Hán hóa hay bị tiêu diệt. Tại sao? Nhà văn Ngô Nhân Dụng trong cuốn „Đứng vững ngàn năm“, đã trả lời là nhờ có tiếng nói. Ông đưa một thí dụ, dân tộc Mãn Thanh một thời rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ 17 đã chiếm được Trung Quốc. Họ có tiếng nói và chữ viết riêng. Sau khi nhà Mãn Thanh sụp đổ, năm 1911 ở Mãn Châu có chục triệu người nói được tiếng Mãn, năm 2011 thì thế hệ những người biết nói tiếng Mãn chết dần, không còn được bao nhiêu. Nhà văn Ngô Nhân Dụng khẳng định „không giữ được tiếng nói thì mất nước“ .
Như vậy tiếng nói của một dân tộc quan trọng biết bao nhiêu. Muốn gìn giữ tiếng nói thì phải có chữ viết để lưu giữ lại tiếng nói. Nên địa vị của chữ viết cũng không kém phần quan trọng. Vào cuối thế kỷ 19, khi chữ Quốc ngữ xuất hiện và đẩy chữ Hán đi vào bóng tối, văn học Việt Nam bừng dậy và nở rộ vì thoát khỏi được cái nôi của văn hóa chữ Hán, trong đầu người Việt không còn bị gò bó vì Tứ Thư Ngũ Kinh, không còn bị chế ngự bởi các điển tích bên Trung Quốc xa lắc xa lơ. Người Việt đã trở về tình tự với cội nguồn thật sự của mình:
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi
(Tình ca tiếng nước tôi - Phạm Duy)
Mùa Xuân 2014
Lương Nguyên Hiền
Thứ Ba, 30 tháng 10, 2018
Nghiên cứu hàng ngàn trải nghiệm cận tử: Tinh thần con người độc lập với bộ não
20:25
No comments
Dưới các hoàn cảnh cùng cực, ví như gần kề cái chết (trải nghiệm
cận tử), tâm trí vẫn có thể hoạt động tốt, thậm chí tốt hơn bình
thường, dù não bộ bị thương tổn, đây là kết luận rút ra được từ hàng
nghìn trường hợp trải nghiệm cận tử được ghi nhận.
Nếu tâm trí chỉ là một chức năng của não bộ, thì sẽ hợp lý khi cho rằng nếu não bộ bị tổn thương, tâm trí cũng sẽ gặp trục trặc. Hầu hết các nghiên cứu não bộ hiện nay đều nhận định như vậy, nhưng một loạt các bằng chứng lại cho thấy điều khác hẳn.
Nếu tâm trí chỉ là một chức năng của não bộ, thì sẽ hợp lý khi cho rằng nếu não bộ bị tổn thương, tâm trí cũng sẽ gặp trục trặc. Hầu hết các nghiên cứu não bộ hiện nay đều nhận định như vậy, nhưng một loạt các bằng chứng lại cho thấy điều khác hẳn.
Tâm trí có thể tồn tại độc lập với não bộ?
TS. Alexander Batthyany là giáo sư ngành
tâm lý học lý thuyết và triết học tâm thần ở Liechtenstein và tại khoa
khoa học nhận thức của trường Đại Học Viên (Áo). Trong nghiên cứu gần
đây trên Tạp chí Nghiên cứu Cận tử,
TS Batthyany và đồng nghiệp đã khảo sát hàng ngàn trường hợp trải
nghiệm cận tử (near-death experience – NDE) để biết được chất lượng hình
ảnh và khả năng nhận biết của tâm trí trong quá trình trải nghiệm.
Ông kết luận:
“Mức độ khủng hoảng sinh lý càng nghiêm trọng (càng gần cái chết),
thì những người trải nghiệm NDE càng dễ xuất hiện hoạt động nhận thức và
cảm quan rõ ràng và phức tạp hơn”.
Một trong những mục tiêu của TS Batthyany là tái lập một vài nghiên cứu
trước đó về chất lượng hình ảnh và khả năng nhận biết của tâm trí trong
trải nghiệm cận tử.
TS. Batthyany tại Hội Thảo năm 2014 của Hiệp hội Quốc tế về Nghiên cứu Cận tử (IANDS). (Ảnh chụp/YouTube)
Trong một nghiên cứu năm 2007 của Đại
học Virginia (Mỹ), có tiêu đề “Các trải nghiệm dị thường: Cận tử và hiện
tượng liên quan”, 52,2% số người trải nghiệm NDE được hỏi đã báo cáo
nhìn thấy các cảnh tượng rõ nét hơn [khi mức độ khủng hoảng sinh lý trở
nên càng nghiêm trọng].
Trong một cuộc khảo sát với 1.122 người
trải nghiệm NDE, Bác sĩ Jeffrey Long, nhà sáng lập Tổ chức Nghiên cứu
Trải nghiệm Cận tử (Near Death Experiences Research Foundation – NDERF),
phát hiện rằng khoảng 74% báo cáo một “trạng thái nhận thức và tỉnh táo
tăng cường”.
Tôi cảm thấy cực kỳ tỉnh táo, sắc bén và tập trung. Hồi tưởng lại,
cảm giác đó giống như nửa ngủ khi vẫn còn sống, và hoàn toàn tỉnh táo
sau khi bị tuyên bố là đã chết”, theo chia sẻ của một người trải nghiệm NDE trong nghiên cứu của TS Batthyany.
“Tâm trí tôi rất rõ ràng, suy nghĩ
của tôi nhanh chóng và quyết đoán. Tôi có một loại cảm giác giải thoát,
tự do và hài lòng khi không còn bị cơ thể câu thúc. Tôi cảm thấy một sự
liên kết với tất cả mọi thứ xung quanh theo một cách không thể lý giải.
Tôi cảm thấy dường như suy nghĩ của tôi trở nên nhanh hơn hay thời gian
trôi chậm lại đáng kể”, một người trải nghiệm NDE khác nói.
Tuy rằng ở một mức độ nhất định, nghiên
cứu của TS Batthyany đã xác nhận kết quả của các nghiên cứu trước đó về
sự gia tăng chức năng nhận thức và cảm quan trong trải nghiệm NDE,
phương pháp của ông vẫn có một vài hạn chế. Ông cho rằng những hạn chế
này có thể dẫn tới một con số ước tính thấp hơn cho phần trăm những
người trải nghiệm NDE xuất hiện trạng thái nhận thức tăng cường.
Những con số thống kê đáng lưu ý về trạng thái cận tử
Để xem xét các điểm hạn chế của phương
pháp, ông đã thu thập hàng ngàn bản tường thuật viết tay từ các kho lưu
trữ trên mạng, ví như trên trang mạng NDERF, rồi chạy qua một chương
trình máy tính để lọc các từ có liên quan đến thị giác hoặc nhận thức
(ví như “nhìn” hoặc “nghĩ”).
Sau đó ông và các đồng nghiệp đã định
lượng chất lượng hình ảnh hoặc khả năng nhận biết của tâm trí được miêu
tả trong các bản tường thuật này (một mẫu có số lượng nhỏ hơn) trên một
thang đo từ -2 to +2. Họ tiếp tục thu hẹp phạm vi nghiên cứu xuống những
bản tường thuật kể lại chi tiết đến tình trạng bệnh lý theo kèm trải
nghiệm NDE. Trong nghiên cứu này, họ chỉ xem xét các bệnh nhân có trải
nghiệm NDE sau khi bị ngừng tim hoặc ngừng hô hấp.
Trong các nghiên cứu trước đây, các nhà
nghiên cứu đã trực tiếp hỏi những người trải nghiệm NDE về chất lượng
hình ảnh hoặc khả năng nhận biết của tâm trí trong trải nghiệm của họ.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của mình, TS Batthyany chỉ có thể phân tích
các thông tin được đưa ra trong các trường hợp NDE chung chung. Nên rất
có thể khi ông cho rằng không có thay đổi gì trong chất lượng hình ảnh
hay khả năng nhận biết trong một số trường hợp, thì trên thực tế lại có
sự thay đổi nhưng người trải nghiệm NDE đó chưa miêu tả đủ chi tiết nên
đã bị sót.
Trong số những người trải nghiệm NDE có
thể nhìn thấy trong quá trình, khoảng 47% nói rằng thị lực của họ được
tăng cường. Và 41% có thị lực không đổi, “và đây là điều khá ấn tượng,
bởi vì những bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy kịch (cận tử), và
thường bị bất tỉnh”, TS Batthyany nói.
Trong số những người trải nghiệm NDE có
đề cập trực tiếp đến trạng thái tâm lý và nhận thức trong quá trình,
khoảng 35% nói rằng họ có một trạng thái tâm lý và nhận thức tăng cường.
Và khoảng 61% báo cáo có trạng thái nhận thức như bình thường trong quá
trình bị ngừng tim hoặc ngừng hô hấp.
Các hạn chế của phương pháp
TS Batthyany cũng đã cẩn thận lưu ý đến
các hạn chế khác trong phương pháp của ông, ví như khả năng nhận được
một số báo cáo NDE giả thông qua mạng Internet. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý
rằng những hạn chế về mặt phương pháp này có lẽ sẽ không ảnh hưởng đến
kết luận tổng thể, rằng những người trải nghiệm NDE thường có thể nhìn
thấy và nhận biết sự vật hiện tượng một cách rõ ràng.
Lấy ví dụ, về rủi ro gặp phải các báo
cáo NDE giả, ông viết: “Trên trang NDERF, nguồn cung cấp lớn nhất các
trường hợp NDE được nghiên cứu ở đây, có không đến 1% trường hợp NDE
được đăng tải bị loại bỏ do lo ngại về tính xác thực của chúng. Ngoài
ra, với số lượng báo cáo nhiều đến vậy, ít có khả năng các báo cáo giả
có thể làm thiên lệch đáng kể các kết quả của chúng tôi theo hướng này
hay hướng khác.
Giới y học đã ghi nhận được trường hợp
những bệnh nhân, bị mắc chứng Alzheimer hay chứng mất trí, biểu hiện ra
một tư duy rời rạc không mạch lạc và hay nói năng lảm nhảm trong rất
nhiều năm, lại đột nhiên khôi phục được sự minh mẫn ngay trước khi qua
đời.
Ngoài những nghiên cứu NDE kể trên, các
nghiên cứu về hiện tượng minh mẫn cuối đời (terminal lucidity) và trí
nhãn (mindsight) cũng đã củng cố kết luận cho rằng tâm trí vẫn có thể có
các hoạt động ý thức phức tạp ngay cả khi chức năng não bị tổn thương
nghiêm trọng, TS Batthyany nói.
Hiện tượng minh mẫn cuối đời và trí nhãn
TS Batthyany đã nghiên cứu hiện tượng
minh mẫn cuối đời ở các bệnh nhân Alzheimer. Đây là một hiện tượng trong
đó những bệnh nhân bị mắc chứng Alzheimer hay chứng mất trí, biểu hiện
ra tư duy rời rạc không mạch lạc và hay nói năng lảm nhảm trong rất
nhiều năm, lại đột nhiên khôi phục được sự minh mẫn ngay trước khi qua
đời.
Khi bộ não bị thoái hóa giai đoạn
cuối, người ta cho rằng khả năng thiết lập sự liên kết mạch lạc giữa ký
ức và suy nghĩ-cảm xúc đã không còn, nên cái cá nhân “trọn vẹn” đó
không thể xuất hiện lại nữa. Tuy nhiên, vào đúng thời điểm này, dường
như toàn bộ tâm trí sẽ hiện lên trở lại, với tất cả các liên kết não bộ
còn vẹn nguyên.
Trí nhãn là khả năng người mù có thể nhìn được trong trải nghiệm NDE.
Khả năng này đã được nghiên cứu bởi
nhiều người, một trong số đó là GS Kenneth Ring từ Đại học Connecticut.
GS Ring phát hiện ra rằng 15 trong tổng số 21 đối tượng nghiên cứu bị mù
đã báo cáo nhìn thấy một số cảnh tượng nào đó trong trải nghiệm NDE.
Có phải là ảo giác?
TS Batthyany cho biết rằng một số nhà
khoa học nhìn nhận trải nghiệm NDE là ảo giác được sản sinh trong hoạt
động sinh lý thần kinh.
“Tuy nhiên, nghiên cứu này và các
trường hợp minh mẫn cuối đời và trí nhãn lại cho thấy một điều khác;
chúng cho thấy sự hiện diện của một trải nghiệm ý thức phức tạp và cấu
trúc ngay trong quá trình suy giảm, phân ly, hay thiếu vắng các yếu tố
sinh học thần kinh tương liên thường được cho là nhân tố cấu thành nên
trải nghiệm NDE—cũng như trải nghiệm ý thức nói chung”, ông nói.
Ông đi đến kết luận rằng ý thức—bao gồm nhận thức về cái tôi, sự tưởng tượng ra các hình ảnh phức tạp, và trạng thái minh mẫn—đôi lúc có thể tồn tại lâu hơn hoạt động của não bộ, ngay cả khi sóng điện não là một đường bằng phẳng.
Minh mẫn cuối đời và trí nhãn là các hiện tượng cực hiếm, nhưng các trải nghiệm NDE thì lại nhiều vô kể và “kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy năng lực thị giác, suy nghĩ và
nhận thức về cái tôi là một điều chắc chắn sẽ xảy ra chứ không phải
ngoại lệ trong trải nghiệm NDE”.
TS Batthyany đã viết: “Các nhà
nghiên cứu trong tương lai sẽ chịu trách nhiệm xác nhận hay phủ nhận
quan sát không chính thức này của chúng tôi thông qua phân tích chính
thức”.
Nghiên cứu của ông, “Sự tưởng tượng hình
ảnh phức tạp và nhận thức trong các trải nghiệm cận tử”, đã được đăng
trên Tập 34, số 2 của Tạp chí Nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử.
Thứ Năm, 25 tháng 10, 2018
Bàn về dân chủ của Robert Dahl
20:05
No comments
Luật Khoa tạp chí trân trọng giới thiệu
bản dịch Việt ngữ tác phẩm “Bàn về dân chủ” của nhà khoa học chính trị
Robert Dahl (Đại học Yale), được dịch giả Phạm Nguyên Trường chuyển ngữ,
do Nhà xuất bản Giấy Vụn ấn hành năm 2015.
Bản e-book do NXB Giấy Vụn cung cấp cho
Luật Khoa để phát hành lần đầu ra công chúng. Độc giả có thể tải sách
theo link dưới đây:
Ngày nay, hầu hết mọi người vẫn đinh
ninh rằng người Việt Nam chưa bao giờ được sống trong nền dân chủ. Trong
ký ức về lịch sử, đặc biệt là trong 43 năm qua, chỉ có một nước Việt
Nam thống nhất được lãnh đạo và điều hành bởi một đảng duy nhất, đảng
Cộng sản Việt Nam.
Song có lẽ bạn đọc sẽ ngạc nhiên khi
biết rằng ở Việt Nam từng tồn tại một chính quyền có thể được coi là dân
chủ. Đó là mười sáu năm dưới chế độ tổng thống ở miền Nam, gồm thời kỳ
Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) và Đệ nhị Cộng hòa (1967-1975).
Dựa vào đâu chúng ta có thể khẳng định như vậy?
Vào thời đó, các quyền căn bản của người
dân được đảm bảo và định rõ trong Hiến pháp (cả hai bản năm 1955 và
1967), như quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và tự do lập hội.
Không chỉ vậy, các quyền này còn được bảo vệ bởi một tòa án bảo hiến.
Nhờ vậy mà người dân miền Nam có thể tham gia vào chính trị.
Quan trọng không kém, chính quyền Cộng hòa Việt Nam được bầu lên thông qua các cuộc bầu cử cạnh tranh
giữa các lực lượng khác nhau như Đảng Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu với
khẩu hiệu “Tự do – Dân chủ – Tiến bộ – Phú cường”, hay Đảng Tân Đại Việt
và Đại Việt Cách mạng Đảng vốn theo đuổi “chủ nghĩa dân tộc sinh tồn”,
cùng nhiều đảng phái khác.
Sự tham gia của người dân và các cuộc
bầu cử cạnh tranh chính là hai tiêu chuẩn căn bản để xem xét một chế độ
có phải là dân chủ hay không.
Đây cũng là quan điểm thịnh hành nhất
ngày nay, được sử dụng để đánh giá các chế độ chính trị, do Giáo sư
Robert Dahl đề xuất trong tác phẩm Bàn về dân chủ.
Dân chủ kiểu cũ
Cách đây 2.500 năm trong thế giới Hy Lạp
cổ đại, nền dân chủ trực tiếp đã ra đời. Tại đó, người dân trực tiếp
tham gia vào công việc cai trị đất nước, mà nổi tiếng nhất phải kể đến
là thành Athens.
Nhưng sau khi Athens cùng các thành bang
của Hy Lạp cổ đại sụp đổ, thì cả thế giới dần bị chi phối bởi các chính
quyền chuyên chế: nào là chế độ phong kiến và quân chủ với những ông
vua, chế độ độc tài quân sự được thống trị bởi các tướng lãnh, hay chế
độ cộng sản với một đảng cai trị, rồi chế độ phát xít kiểm soát mọi mặt
của đời sống xã hội.
Mãi cho tới đầu thế kỷ 19, dân chủ mới quay trở lại.
Nhưng vào lúc đó, quy mô dân số đã quá
lớn và diện tích đất nước thì quá rộng, người dân khó lòng trực tiếp
tham gia vào mọi vấn đề của quốc gia. Họ bèn ủy quyền cho những người
đại diện của mình để quản trị quốc gia nhân danh mình.
Nền dân chủ đại diện ra đời từ buổi ấy.
Năm 1863, ở Nghĩa trang Quốc gia
Gettysburg nằm trên cánh đồng giữa tiểu bang Pennsylvania, một bài diễn
văn dài chưa tới 300 từ đã được xướng lên và đi vào sử sách. Đó là diễn
từ của Tổng thống Abraham Lincoln, nhân lễ tưởng niệm hàng chục ngàn
binh lính đã tử vong trong trận đánh khốc liệt nhất của cuộc nội chiến
Hoa Kỳ.
Trong bài diễn văn ấy, Lincoln đã vinh
danh nền dân chủ rằng: “Chúng ta chính là những người phải hiến dâng
mình cho nhiệm vụ lớn còn ở trước mặt … rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ không bao giờ tàn lụi khỏi mặt đất này.”
Chính ý tưởng này của Lincoln đã được
chính quyền Việt Nam lấy cảm hứng mà đưa vào trong điều 2 bản Hiến pháp
2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, như một
cách tự khẳng định rằng Việt Nam là một nền dân chủ.
Không thể phủ nhận rằng lời diễn thuyết
của Lincoln quả thực hào hùng. Thế nhưng nó hãy còn quá mơ hồ để có thể
trở thành một chuẩn mực.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Xã hội, và Dân chủ ra đời năm 1942, nhà khoa học chính trị Schumpeter cho rằng dân chủ là một phương tiện để người dân trao quyền cho các cá nhân thông qua bầu cử.
Quan điểm mang tính kỹ thuật và thực
nghiệm của Schumpeter trở nên phổ biến trong suốt các thập kỷ sau đó,
đánh bại những định nghĩa thuần túy, không tưởng theo kiểu khẩu hiệu
thời thượng vốn tồn tại từ thời Abraham Lincoln.
Bởi làm sao chúng ta có thể cân đong đo
đếm được một chính quyền có phải của dân (dân kiểm soát), do dân (dân
thành lập), và vì dân (phục vụ dân) hay không, để mà gọi nó là một nền
dân chủ?
Thế kỷ 21 không còn là lúc để chúng ta
dựa vào những áng văn trác tuyệt, những tuyên bố hào hùng, hay những suy
nghiệm mông lung để mà đánh giá một nền dân chủ.
Tiêu chuẩn mới trong kỷ nguyên mới
Giờ đây, các tiêu chuẩn mới về dân chủ bắt đầu được phổ biến rộng rãi, nhưng cũng gây ra không ít hiểu nhầm.
Khá nhiều người vẫn quen đánh đồng dân chủ với bầu cử, chẳng hạn như ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với phát biểu “dân chủ đến thế là cùng” nhờ “quy trình bầu cử thực hiện đúng theo quy chế”.
Đây là cách nhìn nhận sai lệch và phiến
diện. Một cuộc bầu cử dù có 100% người dân đi bầu chăng nữa, cũng không
đủ để làm nên dân chủ.
Trong thế giới hiện đại ngày nay, các
nhà quan sát sử dụng các tiêu chuẩn cụ thể để xem xét đâu là một nền dân
chủ. Các tiêu chuẩn này được tham chiếu chủ yếu từ cuốn Bàn về dân chủ của nhà khoa học chính trị Robert Dahl.
Robert A. Dahl, giáo sư danh dự tại Đại
học Yale, là người rất có ảnh hưởng trong lĩnh vực Khoa học chính trị.
Ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Ai là kẻ cai trị ra mắt năm 1961, Chính trị đa tâm năm 1971, và Bàn về dân chủ năm 1998. Cả ba tác phẩm đều mạnh mẽ ủng hộ cho chủ thuyết đa nguyên.
Bên cạnh việc nghiên cứu về dân chủ, Robert Dahl còn nỗ lực thúc đẩy “dân chủ hóa” trong từng không gian nhỏ hẹp.
Chính ông đã cố gắng tạo nên một môi
trường học thuật dân chủ hơn tại Đại học Yale, đặc biệt trong những cuộc
nổi dậy của sinh viên trong thập niên 1960.
Năm 1965, Dahl dẫn đầu một ủy ban trao
cho sinh viên quyền đề xuất nhiệm kỳ đối với các giảng viên. Vài năm
sau, ông chủ trì một ủy ban khởi động chương trình học dành cho các sinh
viên người Mỹ gốc Phi. Ông đã dành cả đời mình để cổ xúy cho dân chủ từ
tháp ngà ra đời thực.
Quan điểm về dân chủ của Dahl chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ Schumpeter. Theo Schumpeter, nền dân chủ thể hiện qua
việc các lãnh đạo phải được tuyển lựa thông qua những cuộc bầu cử định
kỳ và công bằng, trong đó các ứng viên tự do cạnh tranh để giành phiếu
bầu, và hầu hết những người trưởng thành đều phải có quyền bầu cử.
Như vậy, dân chủ buộc phải có sự cạnh tranh và sự tham gia, đây chính là điều mà Dahl nhấn mạnh trong chế độ dân chủ thực tiễn.
Theo Dahl, có sáu tiêu chí tối thiểu cho một chế độ dân chủ đại diện hiện đại:
- Các quan chức do dân bầu;
- Những cuộc bầu cử tự do, công bằng, và theo định kỳ;
- Quyền tự do biểu đạt;
- Khả năng tiếp cận thông tin;
- Quyền tự chủ của các tổ chức;
- Mọi người đều có quyền công dân.
Sáu tiêu chí này của Dahl nhằm đảm bảo “hai chiều kích dân chủ”: sự tham gia của người dân và bầu cử cạnh tranh.
Đây chính là khuôn khổ định hình nên thước đo dân chủ hiện đại, nhằm
phân tích xem một quốc gia dân chủ ở mức độ nào, và nó đang trở nên dân
chủ hơn hay kém dần đi theo thời gian.
Dân chủ ngày nay
Khá dễ để phân loại Việt Nam khi mà
chúng ta chỉ thỏa mãn tiêu chí đầu tiên của Robert Dahl. Dựa theo các
tiêu chuẩn này, chúng ta hãy thử xem xét một vài trường hợp phức tạp hơn
trên thế giới.
Singapore là một quốc gia đa đảng, nhưng
có phải là một nền dân chủ hay không? Rõ ràng các cuộc bầu cử của nó
không được tổ chức một cách công bằng và tự do, khi đảng cầm quyền Hành
động Nhân dân PAP luôn kiểm soát tiến trình bầu cử để có lợi cho chính
nó. Thậm chí, tại Singapore, người dân sẽ bị kết tội nếu chỉ trích chính quyền, hay nói những điều mà chính quyền cho là “đe dọa an ninh quốc gia”.
Ở Thái Lan, tuy người dân bầu lên chính
quyền, song thực quyền vẫn nằm trong tay quân đội và hoàng gia. Khi lực
lượng này không ủng hộ chính quyền dân bầu, thì nó có thể tiến hành đảo
chính lật đổ. Điều đó có nghĩa là người dân không có quyền tự chủ trong
chính trị.
Cuộc biểu tình tại Thái Lan diễn ra ngày 22/5/2018 vừa rồi, nhằm kêu gọi
chính phủ quân sự tổ chức bầu cử để trao quyền lại cho chính phủ dân
sự. Trên biểu ngữ đề dòng chữ “Thái Lan, chúng tôi muốn có dân chủ.”
Ảnh: AFP
Cộng hòa Nam Phi suốt nửa sau của thế kỷ
hai mươi cũng không được coi là dân chủ thực sự. Theo chính sách
apartheid, các quyền của người da màu không được thừa nhận tương đương
như người da trắng, bất chấp việc nó có đa đảng và bầu cử tự do, như vậy
nó không thỏa mãn được tiêu chí thứ sáu của Dahl.
Hoặc như chính phủ mới lên của Hungary
đã bóp nghẹt truyền thông tự do của nước này để tự dựng lên một đế chế
riêng – nổi tiếng nhất là vụ tờ Népszabadság bị buộc đóng cửa
sau khi phanh phui các bê bối của giới chức cầm quyền. Hành động này
xâm phạm nghiêm trọng tới quyền tự do biểu đạt. Do vậy, có thể thấy chất
lượng dân chủ của Hungary đang ngày càng suy giảm và có khuynh hướng
quay ngược lại chế độ độc tài.
Nếu như Thủ tướng Anh Winston Churchill
tuyên bố rằng “dân chủ là thể chế chính quyền tệ hại nhất, nếu không
tính tới các kiểu thể chế khác”, thì Robert Dahl cũng có quan điểm tương
tự.
Mặc dù Bàn về dân chủ của
Robert Dahl dành riêng bốn chương để bàn về nền dân chủ lý tưởng, song
ông biết rằng nó vẫn chỉ là câu chuyện “viễn tưởng”. Bên cạnh việc phê
phán những thiếu sót của các nền dân chủ hiện hành, Dahl cho rằng dù sao
thì dân chủ vẫn là hệ thống quản trị tốt nhất trong thực tế.
Tuy nhiên ông không áp đặt các chuẩn mực dân chủ một cách khiên cưỡng.
Đối với Dahl, lý tưởng dân chủ có thể được theo đuổi qua nhiều cơ chế.
Nếu như nước Mỹ theo chế độ tổng thống
thì nước Anh theo mô hình đại nghị, và hệ thống bầu cử ở cả hai nước này
đều đại diện theo đa số. Trong khi đó, tại phần đa các nước Bắc Âu,
người dân bầu chọn ra người đại diện theo tỷ lệ. Tất cả các nước này đều
được coi là dân chủ. Điều này cho thấy dân chủ có thể thể hiện dưới
nhiều dạng thức khác nhau, tùy vào văn hóa chính trị ở mỗi quốc gia.
Phê phán và ảnh hưởng
Bàn về dân chủ của Dahl không phải là một câu chuyện phiêu lưu về dân chủ qua các thời kỳ lịch sử như Làn sóng dân chủ hóa thứ ba của Samuel Huntington, cũng không là một lời cổ xúy cuồng nhiệt như trong Lẽ thường của Thomas Paine, hay một cuộc dạo chơi cùng các thiết chế chính trị dân chủ như Nền dân chủ Mỹ của Alexandre Tocqueville.
Có thể coi Bàn về dân chủ là
một cuốn sổ tay đơn thuần. Ở đó, Dahl làm rõ từng thuật ngữ vốn hay bị
hiểu nhầm và dùng sai, như “cộng hòa”, “dân chủ”, “đại diện”, “hệ thống
đa nguyên”. Dahl cũng phác thảo các vấn đề khác nhau một cách gọn gàng
để những người mới làm quen với khái niệm “dân chủ” có thể dễ dàng tiếp
cận.
Vì Bàn về dân chủ tập trung
nhiều vào các định nghĩa, nên nó đã không đề cập tới tiến trình dân chủ
hóa với các câu chuyện thực hành dân chủ cụ thể. Dahl cũng bỏ sót các
nền dân chủ châu Á, trong khi dành phần lớn mối quan tâm cho kinh nghiệm
dân chủ ở Tây phương, từ Hy Lạp cổ đại cho tới Âu Mỹ ngày nay.
Dù vậy, các phân tích mang tính kỹ thuật
của Dahl đã trở thành nguồn khảo cứu đáng giá cho các nhà nghiên cứu
chính trị thực tiễn.
Các học giả ngày nay có thể so sánh và
đối chiếu các nền dân chủ thông qua ba hệ thống đánh giá chính: Hệ thống
DD (Democracy – Dictatorship), hệ thống Polity IV, và hệ thống Freedom
House. Cả ba thước đo này đều dựa trên quan điểm “hai chiều kích” của
Dahl – là tham gia và cạnh tranh.
Có thể thấy, quan điểm của Dahl đã trở thành khuôn khổ chính yếu cho các thước đo dân chủ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)